Ba Ngôi Trong Chứng Tá Của Giáo Hội Sơ Khai (2) - Thời Các Nhà Hộ Giáo

Fri,05/03/2021
Lượt xem: 2125

 

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Với các nhà hộ giáo (apologists), suy tư về Ba Ngôi bắt đầu phát triển một cách rõ nét hơn trong Giáo Hội.

Những điều kiện mới để nói và suy tư về Ba Ngôi phát triển trong thời đại của các nhà hộ giáo. Có ba điều kiện chính yếu: 1) có hành trang hiểu biết vững vàng về văn hóa, tư tưởng Hy Lạp và dân ngoại; 2) cứng rắn luận chiến với những người ngoại giáo; 3) những lệch lạc của Ngộ Đạo đã phá hoại tín biểu Kitô giáo.

Mối bận tâm chính của các hộ giáo phát xuất từ việc bảo vệ đức tin cho các Kitô hữu và bảo vệ họ khỏi những sai lạc của lạc giáo. Đồng thời họ cũng phải trình bày sự phù hợp của niềm tin Kitô giáo cho người Do Thái và Dân Ngoại. Suy tư của các nhà hộ giáo tập trung vào câu hỏi tại sao Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho con người, từ đó họ suy tư về các tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con, dần dần họ cũng đề cập đến Thánh Thần. Đặc biệt họ suy tư nhiều về sự sinh ra của Ngôi Lời, Con Thiên Chúa.

1. Thánh Giustinô tử đạo (100-165)

 Thánh Giustinô sinh khoảng năm 100 tại Nablus, Samaria và tử đạo vào năm 165 tại Rôma. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Ngài là một triết gia trước khi trở lại Kitô giáo và là một khuôn mặt đầu tiên thu hút sự chú ý của chúng ta. Một cách không nghi ngờ rằng giữa các nhà Hộ Giáo, ngài là nhân vật có ý nghĩa nhất.

Để đối thoại với các nhà tư tưởng thuộc Do Thái, Tân Platon và Ngộ Đạo Thuyết cũng như để bảo vệ niềm tin Kitô Giáo, thánh Giustinô rút ra từ Kinh Thánh Cựu Ước, Tân Ước, đặc biệt từ một tài liệu được gọi là “Ký ức của các Tông Đồ,” những chứng tá và những kinh nghiệm về Phép Rửa (x. Apology, 61) và Thánh Thể (x. ib, 65-66). Đồng thời thánh nhân còn tái tìm hiểu và gạn đục khơi trong những ý tưởng của những triết gia mà ngài đã nghiên cứu để giải thích về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngài chú tâm suy tư về Chúa Cha và Chúa Con (Logos), nhưng lại ít chú ý hơn về Chúa Thánh Thần. Ở đây, Giustinô có sự khác biệt so với Athanasiô, một nhà hộ giáo ở thế kỷ III đã bắt đầu suy tư về Thiên Chúa Ba Ngôi bao gồm cả Chúa Thánh Thần.

a. Thần tính của Chúa Giêsu

Được thúc đẩy bởi một đức tin mạnh mẽ, thánh Giustinô nhận thấy thần tính của Chúa Giêsu được các lời ngôn sứ trong Cựu Ước đề cập đến rồi (First Apology, 30-53). Tuy nhiên, khi tin nhận và tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thánh Giustinô có phải hy sinh niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất không? Đây là câu hỏi mà Giustinô luôn quan tâm. Từ đó, ngài tìm hiểu và trình bày cách sâu sắc câu trả lời cho vấn nạn này khi cho rằng việc tôn thờ Chúa Kitô không những không chống lại niềm tin độc thần mà còn là một kế tục của niềm tin này (Diologue, 48-108). Khi nói về những tên gọi và danh xưng của Thiên Chúa, Giustinô thêm vào một phẩm tính mà chúng ta không tìm thấy rõ ràng trong Tân Ước, đó là ngài nhấn mạnh đến phẩm chất “không được sinh ra” và “tự hữu” của Chúa Cha. Theo đó, Chúa Cha là “nguyên ủy” của mọi sự và Chúa Con hằng hữu của Người thì “được sinh ra” trước mọi loài thụ tạo và là tác nhân của công trình tạo dựng (x. Ga 1,3; 1 Cr 8,16-17):

“Chúa Cha là nguồn gốc của tất cả mọi sự, Người không được sinh ra (agenitos). Nên không có danh xưng nào khác phù hợp dành cho Người, Đấng không được sinh ra. Thật vậy, danh xưng mà Người được khẩn cầu nói lên rằng Người là hữu thể tự hữu mà chúng ta gọi Người là Cha, Đấng Sáng Tạo, Đức Chúa và là Chủ mọi sự. Đây không là những danh hiệu, nhưng là những danh xưng phát xuất ân huệ và hoạt động của Người. Con Người được gọi là Đức Kitô bởi vì Người được xức dầu, một mình Người được gọi là Chúa Con, Ngôi Lời - Logos, Đấng ở cùng Thiên Chúa và được sinh ra trước mọi loài thụ tạo, lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo và xếp đặt mọi sự nhờ Người.”[1]

Thành ngữ “Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa” có âm hưởng của Gioan 1,1, còn việc tạo thành mọi sự “nhờ Người” có âm hưởng của Gioan 1,3; mục đích của ngài là muốn nói rằng chỉ có Chúa Con mới được gọi là Con và ai tin vào Người sẽ trở thành “con cái” Thiên Chúa (x. Ga 1,12-13). Ở đây, chúng ta thấy lý do tại sao thánh Giustinô gọi Thiên Chúa là Cha của mọi loài hay là Đấng Sáng Tạo (ho Theos như là cách thức thường dùng của Phaolô và Gioan).

Cũng trong phần này của tác phẩm Secondo Apology, Giustinô trình bày hai tước hiệu Kitô học “từ trên xuống,” đó là tước hiệu Con, Ngôi Lời, và thêm một tước hiệu khác “từ dưới lên” là Đức Kitô. Trong một đoạn khác, ngài giải thích về  tước hiệu Con và Ngôi Lời như sau:

“Tự nơi chính mình Thiên Chúa sinh ra một Đấng Quyền Năng thượng trí trước khi khởi đầu mọi loài thụ tạo khác. Chúa Thánh Thần làm chứng về Đấng Quyền Năng này qua những tước hiệu khác nhau như: Vinh Quang của Thiên Chúa, là Con, hoặc là sự Khôn Ngoan, là Thiên Thần, hoặc là Thiên Chúa, là Đức Chúa, hay là Ngôi Lời.”[2]

Việc Giustinô nói đến “một Sức Mạnh thượng trí nào đó” và “sự Khôn Ngoan” làm chúng ta nhớ lại ngôn ngữ của Phaolô nói về Chúa Giêsu chính là “Sức Mạnh và sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). Kinh Thánh cũng gọi Thiên Chúa (Chúa Cha) như là “Sức Mạnh” (x. Mc 14,62). “Vinh Quang của Thiên Chúa” gợi lên sự hiện diện thần linh (Shekinah) được Cựu Ước nói đến rất nhiều (x. Xh 40,34-38) và có liên hệ với ngôn ngữ của các tác giả Tân Ước như Gioan (x. Ga 1,14;2,11) và Phaolô (x. 2 Cr 4,6; Hr 1,3) khi họ nói về “Vinh Quang” của Chúa Kitô. Giustinô là nhà hộ giáo đầu tiên can đảm đồng hóa Chúa Giêsu với sự Khôn Ngoan thần linh trong sách Châm Ngôn 8,22.[3]

Thánh nhân cũng gán cho Chúa Giêsu một tước hiệu mà Tân Ước không bao giờ đề cập đến, đó là Thiên Thần. Trong Thiên Thần Học lúc bấy giờ, một số tác giả Tân Ước (x. Hr 1,5-14) đã quả quyết rằng Chúa Kitô trổi vượt hơn các thiên thần. Tuy nhiên, trong thế kỷ thứ II, Giustinô cho rằng theo truyền thống Cựu Ước, hạn từ “Thiên Thần của Đức Chúa” có thể được dùng để thay thế cho từ YHWH hoặc Đức Chúa (x. St 31,11,13;  Xh 3,2,4-5). Trong danh sách của Giustinô, Thiên Thần là một tước hiệu thần linh được đặt trước bốn tước hiệu khác (Sức Mạnh, Vinh Quang Đức Chúa, Con, và Khôn Ngoan) và theo sau bởi ba tước hiệu cao cả khác là (Thiên Chúa, Đức Chúa, Lời). Chúng ta sẽ tìm hiểu cách vắn tắt việc Giustinô đánh giá tước hiệu Thiên Thần như thế nào để bảo vệ tính siêu việt vô hình của Chúa Cha và diễn tả vai trò trung gian của Chúa Giêsu.

Khác với các tước hiệu cao cả khác mà Giustinô áp dụng cho Chúa Giêsu (như Con, Đức Chúa, Lời, Khôn Ngoan, và Thiên Chúa), quan điểm của Giustinô về Thiên Thần không có nền tảng chắc chắn để tiếp tục tồn tại (giống như khi gọi Chúa Giêsu là Sứ giả trong thư Hípri 3,1, theo các nhà chú giải, tác giả thư này có sự lẫn lộn nào đó).

Giustinô nhìn nhận thần tính của Chúa Con hoặc của Ngôi Lời. Điều này thúc đẩy việc suy tư về tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con. Khi giải thích việc sinh ra của Ngôi Lời, Giustinô so sánh như mặt trời phát ra những ánh sáng hoặc như một ngọn lửa nhen lên những ngọn lửa khác. Chỉ những loại suy này mới có thể diễn tả “việc sinh hạ Chúa Con không giống như một cắt xén, nên bản thể (ousia) của Chúa Cha bị phân chia.”[4]

Từ đó, Giustinô thấy trước vấn nạn được tranh luận trong thế kỷ IV, đó là “sự đồng bản thể” (hoặc thuộc một bản thể) của Chúa Cha và Chúa Con (hay Ngôi Lời), trong đó các Ngôi Vị chia sẻ cùng yếu tính hay cùng ousia. Cũng vào thời đó, nhờ Tertullianô, hình ảnh của Giustinô về Ánh Sáng từ Ánh Sáng đã được sử dụng lại trong tín biểu Nicea.[5] Khi sử dụng ngôn ngữ về mặt trời phát sinh những tia sáng và lửa nhen lên những ngọn lửa khác, phải chăng Giustinô bị ảnh hưởng bởi ý tưởng của Ngộ Đạo Thuyết (như Tertullianô sau này) khi cho rằng không có gì được coi là đích thật trừ khi nó ở trong sự nhận thức con người? Những lối so sánh này từ mặt trời và lửa cũng tạo nên vấn nạn: phải chăng sản phẩm ở cùng trật tự hay thấp hơn so với nguồn gốc nó phát xuất? Trong mọi trường hợp, thánh Athanasiô (+373) nhận thấy nơi mặt trời và tia sáng mặt trời một hình ảnh rất được ưu thích để nói về việc Chúa Con sinh ra từ đời đời, trong khi chính Kinh Thánh từ xưa đã áp dụng cho Thiên Chúa những sự so sánh với mặc trời và lửa rồi (x. Xh 24,17; Hr 12,29).

Ngoài việc đồng hóa Chúa Con với Khôn Ngoan trong Châm Ngôn 8,22, một lối ẩn dụ Ánh Sáng từ Ánh Sáng và việc sinh ra đời đời từ bản thể thần linh (ousia), Giustinô cũng là tác giả Kitô Giáo đầu tiên khám phá ý nghĩa Ba Ngôi (hoặc hai ngôi) trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa (Elohim) phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

Các tư tưởng gia Do Thái trước Giustinô đã đưa ra thảo luận số nhiều (Elohim) được dùng ở đây để nói về Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Đối với Giustinô, cụm từ “chúng ta hãy làm” ít nhất gợi lên hai Ngôi Vị thần linh: trước khi tạo thành, Chúa Con nói với Chúa Cha như thế (Dialogue, 62; 129). Tuy nhiên, điều mà chúng ta bắt gặp trong sáng Thế Ký 1,26 là số nhiều về sức mạnh trong từ Elohim và về sự bàn định trong cụm từ “chúng ta hãy làm,” một hình thức số nhiều nói về sự bàn định và quyết định khi ai đó cân nhắc điều gì hoặc cam kết nhưng là một sự độc thoại. Số nhiều ở đây có thể cũng hoặc có thể quy chiếu về những hữu thể ở trên trời nhưng không phải là Thiên Chúa, là những triều thần thánh của Thiên Chúa: “Vị khách ở trên trời” trong 1 Các Vua 22,19 hoặc “con cái Thiên Chúa” trong Gióp 1,6.

Trong tác phẩm của mình, Giustinô đề cập nhiều hơn về “vị Thiên Chúa khác ngoài Đấng Tạo Hóa” (Dialogue, 50), Đấng “phân biệt trong số lượng chứ không phải trong tâm trí” (Ibid, 56). Quả thế, việc nói về Chúa Con như là “Thiên Chúa khác/thứ hai,” như Origine cũng đã làm (Dialogue with Heracleides) 2.3), có thể kết liễu niềm tin Độc Thần Thuyết (vì loại suy theo kiểu nhiều thần: thần thứ nhất, thần thứ hai hoặc thần thứ ba) hoặc có thể rơi vào thứ Hạ Phục Thuyết không thể nào chấp nhận, theo đó, Chúa Con không sở hữu thần tính đích thực của Chúa Cha và là Thiên Chúa thứ hai. Tuy nhiên, khi chia sẻ cùng một lý trí, đến mức mà lý trí đó vốn có những đặc tính chính yếu của Thiên Chúa, thì một cách cần thiết nó phải dẫn tới việc chia sẻ cùng thần tính với Thiên Chúa. Giustinô không phân biệt nơi Thiên Chúa có lý trí và ước muốn. Đây có lẽ là một sự gợi ý trước cho những suy tư sau này về bản tính thần linh, hoặc physis (lý trí thần linh và ý muốn). Sau này, Origene, các giáo phụ Cappadocia, thánh Augustinô, thánh Tôma Aquinô, và những vị khác đã phát triển suy tư về sự phân biệt này nơi Thiên Chúa.

Về sau, các giáo phụ và các nhà thần học đón nhận ngôn ngữ của Giustinô và suy tư nhiều hơn về tính duy nhất của lý trí thần linh được Ba Ngôi Vị Thiên Chúa chia sẻ. Điều này gợi lên cho chúng ta một thách đố: Chúng ta có thể phân biệt những cách thức của Ba Ngôi Vị dựa trên nền tảng của sự hiểu biết không? Ba Ngôi Vị chia sẻ cùng một lý trí thần linh như thế có nghĩa là không có chỗ để phân biệt sự hiểu biết của mỗi Ngôi Vị chăng?

b. Ba Ngôi

Trong First Apology, Giustinô đã đưa vào quan niệm về Con Thiên Chúa là Ngôi Vị “thứ hai” và thêm vào một quy chiếu về Chúa Thánh Thần như là Ngôi Vị “thứ ba”:

“Chúng tôi tôn thờ Đấng Tạo Thành vũ trụ... với lời cầu nguyện và tạ ơn... Chúng tôi dâng lời tạ ơn của chúng tôi lên Người bằng lời nói, những nghi lễ long trọng và những bài thánh thi... Người là Chúa, Đấng dạy chúng tôi thi hành việc tôn thờ này và là Đấng được sinh ra vì mục đích này, Người đã chịu đóng đinh dưới thời Phongxiô Philatô... Chúng tôi tin chắc rằng Người là Con Thiên Chúa thật và Người nắm giữ vị trí thứ hai trong trật tự cùng với Thánh Thần của các ngôn sứ ở vị trí thứ ba. Tôi sẽ chứng minh điều mà chúng tôi tôn thờ là hữu lý.”[6]

Qua cách diễn tả này của Giustinô, ý nghĩa về sự lệ thuộc (vị trí thứ hai và vị trí thứ ba) có thể đưa đến nguy cơ đánh mất sự ngang hàng trong sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là phụng tự Kitô Giáo thiếu vắng tóm lược về niềm tin Ba Ngôi theo cái nhìn của Giustinô. Theo ngài, Đấng Tạo Thành hay Chúa Cha được tôn thờ trong phụng vụ như Con Thiên Chúa đã dạy trong diễn từ tại Bữa Tiệc Ly. Việc gọi Chúa Thánh Thần là Thánh Thần của các ngôn sứ muốn nói đến Kinh Thánh được linh hứng mà từ đó thánh Giustinô xây dựng nền thần học về Ba Ngôi. Ngài cũng làm như thế khi nói đến những cách thức suy tư hoặc triết lý. Một số đoạn gợi lại những phương pháp mà Giustinô đã theo đuổi và truyền lại cho những thế hệ kế tục ngài: bối cảnh tạ ơn và ơn cứu độ được kinh nghiệm trong khi thờ phượng, việc tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi được diễn tả trong quá trình phát triển tín biểu, dựa trên những chứng tá chắc chắn của Kinh Thánh và những đòi hỏi của tư duy có lý lẽ vững chắc. Chẳng hạn ngài nói về Chúa Cha là “Đấng Tạo Hóa của vũ  trụ,” “Chúa Con là Con của Thiên Chúa thật,” là Đức Chúa được sinh ra, chịu đóng đinh dưới thời Phonxiô Philatô” và “Chúa Thánh Thần của các ngôn sứ.”

Trước khi kết thúc việc tìm hiểu những trích đoạn từ First Apology, chúng ta hãy lưu ý rằng Giustinô (sau này cả Irênê và Tertullianô nữa) đã không luôn phân biệt cách rõ ràng giữa Thần Khí với Ngôi Lời nhập thể.[7] Điều này được J.N.D Kelly làm chứng rất rõ ràng.[8]

Theo quan điểm của Kelly, chúng ta có thể thêm vào sự kiện là Cựu Ước nhiều lúc đã dùng Logos của Thiên Chúa và Thần Khí như là sự so sánh và nhân cách hóa thay thế lẫn nhau để nói về hoạt động Thiên Chúa; sự song đối này có lẽ đã thôi thúc Giustinô và những nhà thần học khác nhận ra rằng Kinh Thánh chứa đựng những lối đồng hóa này. Điều chắc chắn là giáo huấn về thần tính của Chúa Thánh Thần và căn tính riêng của Người (đối với Cha và Con) được làm sáng tỏ và được xác định từ thế kỷ IV trong Công Đồng Constantinople I (381). Thật vậy, trong suy tư của ngài, thánh Giustinô đã đưa vào trong giáo huấn của mình sự phân biệt thần linh của Thánh Thần khi cho rằng ngay từ đầu, người Kitô hữu đã tôn kính Chúa Thánh Thần.[9]

c. Các sứ vụ

Trong cuốn First Apology, Giustinô nói đến nguồn gốc của Hai Ngôi: Chúa Con được sinh ra, chịu đóng đinh” và “Thánh Thần của ngôn sứ.” Với quy chiếu này, chúng ta đề cập đến sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ. Giustinô sử dụng sự nhấn mạnh của phái Tân Platon để áp dụng cho Thiên Chúa Cha như tính siêu việt tuyệt đối, tính vô hình, và bất khả thấu của Thiên Chúa và giáo huấn về Logos Spermatikos, hay là “mầm chân lý, mầm Logos” mà phái Ngộ Đạo thuyết có cùng quan điểm với ngài và tư tưởng này có liên hệ với tư tưởng của Philo về nguyên lý của lý tính tiềm tàng và liên kết trong vũ trụ và lịch sử. Giustinô phát triển chủ đề của Gioan về sự tiền hữu của Ngôi Lời như là trung gian hoàn vũ của công trình tạo thành và mạc khải.

“Mầm chân lý” được gieo rắc khắp mọi nơi[10] và ít ra nó được gieo trong mỗi con người.[11] Tùy theo những cách thức khác nhau, toàn thể nhân loại đều tham dự vào Logos.[12] Nhiều người sống chỉ “nhờ một mảnh của Logos nào đó;”[13] còn các Kitô hữu thì sống “theo sự hiểu biết và chiêm ngắm Logos toàn thể, là Đức Kitô.”[14] Giustinô áp dụng tính trung gian hoàn vũ của Ngôi Lời đối với lịch sử người Hy Lạp; ngài chú giải triết học và văn hóa Hy Lạp như là sự dẫn nhập hay sự chuẩn bị cho Chúa Kitô và Kitô giáo:

“Giáo huấn của Platon không trái nghịch với giáo huấn của Chúa Kitô, tuy nhiên, chúng không hoàn toàn giống với giáo huấn Chúa Kitô; nó giống với những giáo huấn của những người khác như Ngộ Đạo thuyết, các nhà thơ và các tác giả khác. Nhờ được chia sẻ với Logos thần linh phong phú, nên mỗi người nói hay nhận thấy điều này phù hợp với khả năng của họ... bất cứ điều gì được nói ra một cách đúng đắn bởi bất cứ ai thì thuộc về chúng ta, những Kitô hữu; để chúng ta tôn thờ, yêu mến và đến gần Thiên Chúa, Logos xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng không được sinh ra và không thể diễn tả... Nhờ mầm của Logos được gieo trong họ, tất cả các tác giả này có thể nhìn thấy thực tại cách lờ mờ. Vì đó là mầm chân lý phát xuất từ Chân Lý và họ mô phỏng nó theo khả năng của họ; còn điều tự thân thì khác xa, nó ban tặng và lan tỏa nhờ sự tự hiến chính mình.”[15]

Để đạt tới sự hiểu biết “nhờ sự tự hiến chính mình” của Ngôi Lời nhập thể, “Đấng đến từ Thiên Chúa không được sinh ra và không thể diễn tả,” Giustinô và các tư tưởng gia Kitô giáo không phủ nhận sự hiện diện và tác động của Ngôi Lời trong đời sống và tư tưởng của Platon, Ngộ Đạo thuyết, các nhà thơ và nhà văn. Đây là sự tác động làm cho những giáo huấn của họ cách nào đó nên giống với giáo huấn Chúa Kitô.

Sau này, Origene có nói điều gì đó tương tự với tư tưởng của Giustinô, nhưng ngài diễn tả theo một cách thức khác về tia sáng thần linh (divine rays) là trung gian bởi Ánh Sáng, không bị giới hạn ở bất cứ nơi nào, nhưng được tìm thấy cách viên mãn nơi con người Chúa Giêsu:

“Sẽ không đúng khi cho rằng những tia sáng (của Thiên Chúa) chỉ có ở trong Con Người này (Chúa Giêsu )... hay cho rằng Ánh Sáng là Ngôi Lời Thần Linh, nguyên nhân của những tia sáng này, không hiện diện ở những nơi khác nữa... Chúng ta phải thận trọng không tạo nên những chống đối với bất kỳ giáo huấn tốt lành nào, kể cả những tác giả ở ngoài niềm tin.”[16]

Vào thế kỷ IV, Athanasiô thành Alexandria đã tranh luận về điều này, theo ngài, vì con người “có lý trí – logikoi,” tất cả mọi người cách nào đó đều tham dự vào Ngôi Lời/Lời; họ có trong mình ít nhất “một số dấu vết của Lời.”[17]

Hơn bao giờ hết, vai trò mạc khải và cứu độ của Ngôi Lời/Chúa Con và của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời của những người không phải là Kitô hữu là một chủ đề rất sống động để suy tư.[18] Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu cái nhìn bao hàm (inclusive) của Giustinô và của những tác giả khác: Theo họ, mọi người chia sẻ trong Ngôi Lời, sở hữu những nguồn mạch hiểu biết hoặc những ngôn từ nội tâm hơn là những gì được diễn tả, nhưng ngôn từ được nói ra. Như Giustinô đặt vấn đề: “Chúa Kitô là Người đầu tiên được sinh ra bởi Thiên Chúa, và... Người là Ngôi Lời mà mọi người chia sẻ. Những ai sống theo lý trí là những Kitô hữu, dẫu họ được xếp như là những người vô thần: chẳng hạn như những triết gia Hy Lạp, Socrates và Heracletus.”[19]

Trước triết gia Socrates, có lẽ người quan trọng nhất là Heracletus (d. 475 BC). Với định nghĩa nổi tiếng “không ai tắm hai lần trong một dòng sông,” ông cho rằng mọi sự luôn ở trong một tình trạng của dòng chảy vĩnh hằng. Giustinô có thể tự cho mình như là người tôn Socrates lên, giống với Platon, khi bàn về thế giới của những ý tưởng không thay đổi. Cả hai khuynh hướng triết học, Heracletus và Socrates, đã cùng chia sẻ trong cùng một Ngôi Lời thần linh.

Niềm tin của Giustinô vào Chúa Kitô như là “Trưởng Tử của Thiên Chúa” là nguyên lý nền tảng chú giải cho việc giải thích lịch sử cứu độ của nhân loại nói chung và cả lịch sử Cựu Ước nói riêng. Vì Ngôi Lời tiền hữu, Chúa Con có trước khi tạo thành và là trung gian tạo thành, Người gieo mầm chân lý khắp mọi nơi. Như là Thiên Thần, Người là Đấng đến gặp gỡ Ápraham, Giacóp, Môsê và những người khác trong những cuộc thần hiện của Cựu Ước.[20] Ví dụ, nơi bụi gai bốc cháy, Người nói với Môsê.[21] Bởi vì “Đấng tạo thành mọi sự” hoàn toàn siêu việt và không thể diễn tả, “Tác Giả và Cha của mọi sự” không bao giờ xuất hiện với một ai và không bao giờ phán dạy trong một con người nào.” Đó là vị Thiên Chúa và Đức Chúa khác với “Đấng tạo thành mọi sự,” Đấng đã phán với các tổ phụ trong Cựu Ước và những người khác về ý định của Thiên Chúa.”[22] Trong ánh sáng của những lời mà Chúa Cha phán nơi Phép Rửa và biến hình của Chúa Giêsu, cũng như theo truyền thống Tin Mừng Nhất Lãm, Giustinô là người đầu tiên muốn khẳng định rằng “Thiên Chúa Cha mọi loài” không bao giờ nói trong một con người.”

Với sự nhiệt thành muốn bảo vệ tính siêu việt tuyệt đối của “Tác Giả và Cha mọi loài” là Đấng vượt trên mọi danh hiệu và mọi sự mô tả, Giustinô đã phát triển chủ đề về vai trò trung gian của Chúa Con là Đấng “khác” hoặc “Thiên Chúa thứ hai.” Với tư cách là Ngôi Lời, trung gian và hiện diện trong mọi thụ tạo, như là Thiên Thần, Chúa Con mạc khải ý định thần linh trong các cuộc thần hiện của Cựu Ước; sau này trong Tân Ước, đó là cuộc thần hiện của Ngôi Lời (Logophanies). Chúng ta cần lưu ý rằng trong những thế kỷ đầu và thế kỷ tiếp theo, quan niệm của phái Tân Platon về những trung gian đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi. Đây là giai đoạn tạo nên lạc giáo Hạ Phục Thuyết của Arius về Ngôi Lời. Tuy nhiên, quan niệm mang tính hạ phục thuyết của Giustinô không dẫn ngài tới lệch lạc như Arius và phủ nhận thần tính đích thực của Ngôi Lời.

Các nhà tư tưởng khác trong những thế kỷ sau đã xác tín về sự đau khổ của Chúa Con nên họ đã đi đến phủ nhận thần tính đích thực của Người. Ở đây, Giustinô không đồng ý với những triết gia Hy Lạp khi họ nhấn mạnh rằng tính bất biến vĩnh cửu của Thiên Chúa không cho phép họ nói về việc nhập thể và cái chết của một Ngôi Vị thần linh. Không chỉ nói với người Do Thái, Trypho đã thách thức niềm tin của Giustinô về nhập thể:

“Ông đang cố gắng minh chứng điều không thể tin và không thể có trong thực tế: nghĩa là Thiên Chúa dự định được sinh ra và trở thành con người.”[23]

Vấn nạn này vẫn còn tồn tại đến hôm nay: Con Thiên Chúa làm sao có thể đi vào trong lịch sử nhân loại trong khi vẫn còn là Thiên Chúa? Những người ngoại giáo có hiểu biết cảm thấy bị xúc phạm về niềm tin của Giustinô khi ngài nói rằng Đức Kitô chịu đóng đinh như là “Thiên Chúa thứ hai.” Giustinô thêm rằng:

“Họ tố cáo chúng ta là điên rồ, khi cho rằng chúng ta đã gán cho Con Người chịu đóng đinh một vị trí thứ hai trong Thiên Chúa hằng hữu và bất biến, Đấng Tạo Thành mọi sự.”[24]

Làm sao có thể quan niệm một vị Thiên Chúa là Đấng bất thụ cảm, bất biến và hằng hữu lạii có thể trở thành một Đấng bị biến đổi khi liên hệ với những biến cố trong thời gian và không gian? Làm sao có thể hiểu được việc Người trở thành đối tượng của đau khổ và phải chết nơi thập giá được?

d. Tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi

Trong những trước tác của mình, Giustinô diễn tả cách hùng hồn lời tuyên xưng Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào “Thiên Chúa thật” cũng được gọi là Cha và Đấng làm nên mọi sự, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Trong tác phẩm Firt Apology, Giustinô viết:

“Chúng tôi tôn kính và tôn thờ Chúa Cha (Thiên Chúa thật), Chúa Con, Đấng đến từ Người và đã dạy chúng tôi những điều này… và Thần Khí của các tiên tri.”[25]

Sau này trong chính tác phẩm này, ngài nói về “Cha của vũ trụ,” “Con Người” và “Chúa Thánh Thần.”[26] Một số từ ngữ này được lấy từ những lời cầu nguyện trong Kinh Nguyện Thánh Thể. Ngoài ra, nghi thức Phép Rửa cung cấp công thức Ba Ngôi cho những trích đoạn khác trong First Apology. Giustinô diễn tả cho những độc giả ngoại giáo hiểu điều xảy ra khi người Kitô hữu được rửa tội: “Nhân danh Thiên Chúa là Cha và chủ tể mọi loài, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng tôi và nhân danh Chúa Thánh Thần, họ được tẩy rửa trong nước.”[27] Sau đó, Giustinô mô tả Phép Rửa cách đầy đủ hơn:

“Để được ơn tha thứ những lỗi lầm quá khứ, khi dìm mình trong nước, người ta kêu cầu cho những người muốn tái sinh và những ai sám hối tội lỗi mình, nhân danh Thiên Chúa là Cha và Chúa tể vũ trụ. Việc kêu cầu này được thực hiện do những người dẫn người rửa tội đến giếng thanh tẩy… Việc dìm mình này gọi là sự Soi Sáng, vì tâm trí của những tân tòng sẽ được tràn đầy ánh sáng. Và người được soi sáng cũng được thánh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh dưới thời quan Phonxiô Philatô và nhân danh Chúa Thánh Thần, Đấng nhờ các tiên tri mà loan báo trước những gì liên quan đến Đức Giêsu.”[28]

Rõ ràng trước Giustinô lời tuyên xưng Ba Ngôi theo trật tự của Mátthêu (Cha, Con, Thánh Thần) đã được thực hành trong nghi thức Phép Rửa.

Giustinô có sự đóng góp giá trị và khởi đầu cho giáo huấn Ba Ngôi. Ngài suy tư về Thiên Chúa trong ánh sáng của kinh nghiệm được chia sẻ bởi các Kitô hữu (nhất là kinh nghiệm trong phụng vụ). Ngài cũng suy tư về Kinh Thánh được linh hứng (lúc mà Quy Điển chưa được thiết lập) và về những đòi hỏi của tư duy triết học. Ngài muốn bảo vệ tính siêu việt bất khả diễn tả của Chúa Cha, Đấng sáng tạo mọi sự. Nhưng cách diễn tả của ngai dẫn tới một khuynh hướng hạ phục nào đó của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, trong phạm vi được suy tư. Đồng thời, Giustinô cho rằng Chúa Con khi chia sẻ một bản thể (ousia) và một lý trí với Thiên Chúa, Người đã/đang là Thiên Chúa đích thực. Giustinô trình bày về Chúa Con như là Logos, Đấng sáng tạo, xếp đặt, và tác động lên toàn thể vũ trụ. Lối trình bày này cho phép chúng ta có một cái nhìn tích cực về tình trạng tôn giáo của những người không phải là Kitô hữu. Dầu không nói nhiều về “Thiên Chúa chịu đóng đinh (Con),” Giustinô ủng hộ tính bao gồm thực sự của Thiên Chúa trong lịch sử và đau khổ của nhân loại. Ngài tin rằng Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Điều này cho phép ngài không chỉ tranh luận với người Do Thái và những người lương dân có học thức nhưng còn giúp cho các Kitô hữu ở Rôma đứng vững để chấp nhận tử vì đạo. Một cách văn chương, đối với Giustinô niềm tin Ba Ngôi là vấn đề sống còn.

2. Tatianus Assyrius (+180)

Sinh ở Siria vào khoảng 120 và mất khoảng 180, là đồ đệ của Giustinô.

Những trực giác của Giustinô được phát triển nhờ các nhà hộ giáo khác. Nếu triết gia này nhấn mạnh về việc Chúa Cha không bị giảm sút sau khi sinh ra Chúa Con, thì mối lo lắng chính của người môn đệ Tatianus là trình bày về sự sinh ra này không có nghĩa là có sự phân chia trong Thiên Chúa và vì thế chủ nghĩa độc thần được duy trì. Giustinô ý thức rằng Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa khác, nhưng ngài lại không đưa ra một câu trả lời đầu đủ cho sự phản bác của Trifone, một nhà tư tưởng Do Thái.

Trái lại, Tatianus đã làm được điều đó, trong một trích đoạn nền tảng của Ad Graecos, ông viết:

“Thiên Chúa hiện hữu “từ nguyên thủy” và chúng ta đã hiểu rằng nguyên thủy ấy là quyền năng của Ngôi Lời (x. Ga 1,1). Đức Chúa của tất cả mọi sự… còn ở một mình bởi vì công trình chưa được tạo thành; vì thế, quyền năng của mọi sự hữu hình và vô hình còn ở với Người (Người chính là nguyên lý bản thể), và Người có nơi mình tất cả mọi sự nhờ quyền năng của Ngôi Lời, Đấng ở trong Người và đến với ánh sáng. Do lòng muốn đơn thuần theo bản tính Thiên Chúa, Người đã sinh ra Ngôi Lời; Ngôi Lời không đến một cách vô ích, Đấng là công trình đầu tiên của Chúa Cha. Điều chúng ta biết Người là nguyên lý của vũ trụ đã hiện hữu theo sự phân phát, chứ không theo sự phân chia. Điều đã được phân chia thì được phân biệt từ ban đầu, nhưng điều được phân phát và  ban cho sự phân chia của nhiệm cục đã không làm phát xuất những sự bất toàn đối với Đấng từ đó phát xuất. Như từ một cái đuốc đã thắp lên nhiều ngọn lửa và ngọn đuốc đầu tiên ấy không bị hao mòn ánh sáng vì sự phân chia ra nhiều ngọn đuốc, cũng thế, Ngôi Lời phát xuất từ quyền năng của Chúa Cha, không bị hao mòn bởi Ngôi Lời là Đấng đã phát sinh ra Người… Ngôi Lời được sinh ra từ nguyên thủy theo lượt mình, tự thân, Người đã làm nên công trình tạo thành là thế giới xung quanh chúng ta, khi tạo dựng vật chất.”[29]

Để giải thích sự sinh ra của Chúa Con, Tatianus đã lấy lại sự loại suy về lửa, mà Giustinô đã sử dụng. Chúa Cha không bị hao hụt vì sự sinh ra này bởi vì không phải là một sự phân chia, nhưng đây là sự tham dự vào hữu thể. Bởi thế, Chúa Cha không bao giờ hiện hữu mà không có lý do. Cả ý muốn đơn thuần thần linh có nguồn gốc từ sự sinh ra của Ngôi Lời.

Một yếu tố nền tảng khác chúng ta tìm thấy trong Tatianus là định nghĩa về Thiên Chúa như là thần khí (Ad Graecos, 4; x. Ga 4,24). Tuy nhiên, chúng ta dám chắc đây không phải là Thần Khí đi vào vật chất, nhưng Đấng Tạo Thành của các thần khí vật chất và của những hình thức vật chất. Ngôi Lời không bao giờ được gọi là Chúa Con, tham dự điều kiện thiêng liêng này:

“Ngôi Lời trên trời là thần khí từ thần khí và lý do của quyền năng lý trí, đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Chúa Cha, Đấng đã sinh ra Người và như là hình ảnh của sự bất tử.”[30]

Điều kiện thiêng liêng của Thiên Chúa được chia sẻ bởi Ngôi Lời Đấng sở hữu chính bản tính của Thiên Chúa. Điều kiện thiêng liêng này làm cho sự sinh ra được bao gồm trong những điều phi vật chất. Nhưng bên trên “Thiên Chúa tinh thần,” Tatianus cũng nói về “Thần Khí của Thiên Chúa,” Đấng có thể ở trong thân xác con người và ban cho con người sự hoàn thiện.” Tuy nhiên, Thần Khí này không được đặt trong sự liên hệ với Chúa Cha và Chúa Con trong đời sống nội tại của Thiên Chúa. Trong Tatianus, chúng ta có một dạng của khuynh hướng nhị thần. Bên cạnh Chúa Cha, Ngôi Lời hiện diện, Đấng tham dự bản tính thần linh và điều kiện thiêng liêng của Thiên Chúa. Thần Khí là sứ giả của Thiên Chúa, ở trong chúng ta, không xuất hiện trực tiếp ngang hàng với các Ngôi kia.

3. Athenagoras (133-190)

Athenagoras sinh ở Athens, Hy Lạp, là một nhà hộ giáo trước Công Đồng Nicea, một triết gia và được ơn trở lại với Kitô Giáo. Trong các tác phẩm của ông, chúng ta tìm thấy những công thức về Ba Ngôi giống với Giustinô và khác với Tatianus. Chúng ta dừng lại một đoạn dài trong đó tác giả trình bày cấu trúc Ba Ngôi rất rõ ràng, mở đầu cho những suy tư trừu tượng về Ba Ngôi:

“Chúng tôi tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa hằng hữu, không được sinh ra, vô hình, bất thụ cảm, không thể thấu hiểu, không đo lường… tràn đầy ánh sáng, vẻ đẹp, tinh thần và quyền năng vô biên. Từ Người, tất cả được sinh ra nhờ (dia) Ngôi Lời Đấng phát xuất từ Người, tất cả được trật tự và hướng dẫn cũng như hướng về Người. Chúng tôi cũng nhìn nhận rằng Con Thiên Chúa… Liên quan đến Chúa Cha và Chúa Con, chúng tôi có một khái niệm khác với các nhà thơ của các ngươi… nhưng Con Thiên Chúa là Ngôi Lời của Chúa Cha trong ý tưởng và hành động và nhờ Người tất cả mọi sự được sinh ra, bởi thế, Chúa Cha và Chúa Con là một. Và bởi vì Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con (x. Gv 10,38; 17,21-33) trong sự hiệp nhất và trong quyền năng của Thần Khí, Con Thiên Chúa là lý trí và lời của Chúa Cha… Chúa Con là con của Chúa Cha, vì thế Người không được tạo thành. Từ nguyên thủy, Thiên Chúa hằng hữu đã có Ngôi Lời nơi mình, khi còn là tinh thần trong cõi đời đời, nhưng nhờ sự kiện là trong khi tất cả mọi sự vật chất chưa có hình dạng và mênh mông, Người tạo thành vạn vật từ hỗn mang nhờ đó chúng có ý tưởng và hiện hữu. Về vấn đề này thì phù hợp với tinh thần ngôn sứ: “ĐỨC CHÚA đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất” (Cn 8,22). Trái lại, đối với Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng cho biết bao tiên tri tuyên phán, chúng ta tuyên xưng rằng Người là sự lưu xuất từ Thiên Chúa, Đấng phát xuất và phát ra như ánh mặt trời… Ai sau khi đã nghe mà nghi ngờ thì được coi là vô thần, là người không tin nhận Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần đã chứng tỏ quyền năng trong sự hiệp nhất và phân biệt trong trật tự.”[31]

Nhiều điểm trong bản văn này cần được chú giải. Trước hết, như chúng ta đã nói về cấu trúc Ba Ngôi là nền tảng cho toàn bộ đoạn văn dài này. Sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con được nhấn mạnh; xem ra có sự cư ngụ hỗ tương ở sâu thẳm và tính cộng đoàn của thần khí. Khi sử dụng bản văn Cn 8,22 để nói về sự sinh ra trong tương quan với tạo thành: Ngôi Lời đã được sinh ra trước lúc khởi đầu công trình của Thiên Chúa. Nhưng Ngôi Lời không được tạo thành, bởi vì Thiên Chúa luôn là lý trí. Vì vậy, có một sự ám chỉ cho Logos hằng hữu, Đấng hiện hữu trong Thiên Chúa trước khi sinh ra. Theophilus Antiôkia sẽ làm sáng tỏ hơn khái niệm này. Chúa Thánh Thần hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con, nhưng có lưu ý về một sự mơ hồ nào đó về quan niệm sinh xuất như ánh sáng mặt trời phát xuất và trở về với nguồn gốc. Chúng ta biết rằng Giustinô đã từ chối ý tưởng này khi áp ụng cho Logos. Chúa Thánh Thần không được gọi cách trực tiếp là Thiên Chúa, như ở cuối đoạn so với Chúa Cha và Chúa Con. Vấn đề thần tính của Chúa Thánh Thần được đặt ra theo sự phát triển của tín điều, luôn đi sau vấn đề thần tính của Chúa Con. Dẫu có những giới hạn, nhưng chúng ta cần ghi nhận cố gắng phân biệt phạm vi trong đó sự hiệp nhất thần linh được tìm thấy và sự phân biệt thần linh của Ba Ngôi được nhìn nhận. Sự hiệp nhất được nhìn nhận trong quyền năng và sự phân biệt trật tự mà các ngôi vị sở hữu; trật tự này minh chứng rằng Ba Ngôi không trao đổi cho nhau trong tất cả mọi phương diện và vì thế có sự phân biệt giữa họ.

Sự hiệp nhất và phân biệt được diễn tả trong những diễn tả sau đây:

“Chúng tôi chỉ được thúc đẩy bởi ước muốn nhận biết Thiên Chúa đích thực và Ngôi Lời, Đấng phát xuất từ Người; đâu là sự thông truyền của Chúa Cha với Chúa Con; Chúa Thánh Thần là ai, đâu là sự hiệp thông của những hữu thể lớn lao như thế, đâu là sự phân biệt giữa họ cũng như sự hiệp nhất của Thần Khí với Chúa Con và Chúa Cha.”[32]

Ở đây vấn đề được lặp lại mà chúng ta gọi là vấn đề Ba Ngôi theo nghĩa chặt, dù nó còn ở trong hình thức manh nha, nhưng có tính quyết định cho nền thần học về Ba Ngôi qua mọi thời đại. Đó là câu hỏi về sự hiệp nhất và phân biệt của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Người ta đề cập một cách trực tiếp về sự sinh ra của Chúa Con từ Chúa Cha, trong khi vấn đề phát xuất của Chúa Thánh Thần thì chưa được đề cập.

Những công thức Ba Ngôi gán cho Chúa Thánh Thần một chức năng vũ trụ luận (cosmic), có lẽ do ảnh hưởng từ phái Stoa:

“Bởi vậy, nếu Platon không vô thần… Nhưng, chúng tôi biết điều này và nhấn mạnh rằng Ngôi Lời là Thiên Chúa, từ Người mọi sự được tạo thành và được hướng dẫn bởi Thần Khí Người.”[33]

Tuy nhiên, nó cũng không thể thiếu ám chỉ cho hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lời tiên tri và xác tín chung cho thời đại.

4. Theophilus thành Antiôkia (+185)

Theophilus là giám mục thứ bảy của Antiôkia, người đã để lại một số tác phẩm trong đó có cuốn Apologia ad Autolycum. Chúng ta tìm thấy hạn từ Hy Lạp trias được dịch sang tiếng La Tinh với từ trinitas để nói về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: “Ba ngày trước khi tạo thành ánh sáng là biểu tượng của Ba Ngôi, của Thiên Chúa, của Ngôi Lời và của Khôn Ngoan.”[34] Chúng ta lưu ý rằng ở đây với Khôn Ngoan, người ta không quy chiếu về Chúa Con, như chúng ta đã thấy cách thức để nhìn nhận cho tới giờ, nhưng quy chiếu về Chúa Thánh Thần. Trong một trích đoạn, tác giả này so sánh Khôn Ngoan với Logos và hình như đồng hóa với Logos. Ngược lại, trong những đoạn khác nói về Thần Khí, tác giả phân biệt rõ rệt so với Logos. Thánh Thần được nói đến rất ít trong những hoàn cảnh khác nhau, ngay cả khi nói về sự linh hứng của Thánh Kinh. Đối với Theophilus, tính phụ tử của Thiên Chúa liên hệ đến việc tạo thành. Ngài cũng khẳng định về độc chủ tính và duy nhất tính của Thiên Chúa được thể hiện trong tạo thành.

Tuy nhiên, khía cạnh nổi bật được Theophilus làm sáng tỏ là học thuyết về hai tình trạng của Ngôi Lời, Logos hằng hữu trong cung lòng Chúa Cha, trước khi sinh ra từ đời đời và Logos được tiên tri, phát sinh khi Thiên Chúa sinh ra Người để tạo thành thế giới:

“Ngôi Lời luôn hằng hữu trong cung lòng Thiên Chúa. Trước khi mọi sự hiện hữu, với lý trí và sự khôn ngoan Người, Thiên Chúa tự nhủ. Và Thiên Chúa càng muốn tạo dựng bao nhiêu thì Người muốn cứu độ bấy nhiêu. Người đã sinh ra Ngôi Lời như được tiên báo, là trưởng tử của tất cả mọi loài thụ tạo, không bao giờ Người không có Ngôi Lời, nhưng khi sinh ra Ngôi Lời, Người luôn đàm thoại với Ngôi Lời.”[35]

Như thế, một đàng tính vĩnh cửu của Ngôi Lời Thiên Chúa được bảo vệ, Đấng hiện hữu trước khi được tiên báo, đồng thời khó khăn được xóa bỏ liên quan đến giả thiết cho rằng Chúa Cha trước khi sinh ra có lẽ đã hiện hữu mà không có lý trí và khôn ngoan. Trong những tác giả trước, chúng ta đã thấy có một số điểm nhấn mạnh đến điều này, nhưng ở đây nó trở thành công thức rõ ràng. Theophilus phân biệt rõ ràng hai tình trạng của Logos tiền hữu và những lời được dùng như là những hạn từ “kỷ thuật” để nói về tình trạng đó.

Trong suy tư của các nhà Hộ Giáo, trước hết giáo huấn về Ngôi Lời thật là quan trọng. Chắc chắn rằng, một đàng không chỉ ở Lời Tựa của Gioan có những khó hiểu vượt trên những gì mà bản văn Kinh Thánh khẳng định. Nó cho phép giải thích tính nghĩa tử thần linh của Chúa Giêsu, nếu không sự sinh ra của Người sẽ được hiểu như là một dạng hữu thể con người và loài vật. Sự sinh ra của Ngôi Lời như thế được chiêm ngắm như một tiến trình phù hợp với bản tính thần linh tinh thần.

Kết luận cho giai đoạn này: Sự đóng góp của các nhà Hộ Giáo cho lịch sử thần học là rất lớn. Trong đó, một các rõ ràng tất cả các thuyết về sự sinh ra của Chúa Con như là một tiến trình của lý trí, mà chúng ta sẽ có cơ hội để nghiên cứu xuyên suốt dòng lịch sử. Giới hạn của thời kỳ này cho đến Công Đồng Nicea là thiếu sự rõ ràng về sự vĩnh cửu của sự sinh ra này. Tuy nhiên, đây là công thức rõ ràng cho phép khẳng định tính thần tính của Logos, trong tư cách là Con Thiên Chúa, hiệp nhất với Chúa Cha. Chúng ta không quên rằng bên cạnh đó sự nhấn mạnh về hành động của Logos trong tạo thành cho phép tóm lược đặc tính hoàn vũ của Chúa Kitô xét như là trung gian tạo thành, để nhìn nhận Chúa Giêsu là lý do của vũ trụ và các mầm Logos hiện diện trong tất cả công trình tạo thành. Đây là điểm mà Giustinô phát triển vững chắc. Trong những tác giả này vẫn còn thiếu một nền thần học về Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta không quên những cố gắng của Athanagoras khi nhìn nhận Người hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Con trong đời sống Ba Ngôi. Còn Theophilus cho rằng Thánh Thần được nói đến cùng với Chúa Con và Lời của Thiên Chúa trong St 1,26, khi ông kết luận về trias divina – ba ngôi vị thần linh.



[1] Giustinô, Second Apology, 5.

[2] Id., Dialogue, 61. x. Id., First Apology, 12.

[3] x. Id., First Apology, 23; Id., Dialogue, 129.

[4] Id., Dialogue, 128.

[5] DH 125; ND 7.

[6] Giustinô, First Apology, 13.

[7] Id., First Apology, 33.

[8] X. J.N.D Kelly, Early Christian Creeds, 3d ed. Longman, London 1992, 148.

[9] Giustinô, First Apology, 6.

[10] Giustinô, Second Apology, 8.

[11] Ibid., 10.

[12] Giustinô, First Apology, 46.

[13] Giustinô, Second Apology, 8.

[14] Ivi.

[15] Giustinô, Second Apology, 13.

[16] Origene, Contra Celsum, 7,17).

[17] Athanasiô, De Incarnatione Verbi, 3.3; xem 5,1; 6,4.

[18] x. Jacques Dupuis, Toward a Christian Theology of Religiuos Pluralism, Maryknoll, Orbis, NY 1997.

[19] Giustinô, First Apology, 46.

[20] Giustinô, Dialogue, 75.

[21] Giustinô, First Apology, 46.

[22] Giustinô, Dialogue, 56.

[23] Id., 68.

[24] Giustinô, First Apology, 13.

[25] Ivi., 6.

[26] Iv., 65, 67.

[27] Giustinô, First Apology, 61.

[28] Ibid.

[29] Tatianus, Ad Graecos, 5: BAC 116, 578-579.

[30] Tatianus, Ad Graecos, 7.

[31] Athenagoras, Legatio, 10: BAC 116, 659-661.

[32] Athenagoras, Legatio, 12: BAC 116, 663-664.

[33] Athenagoras, Legatio, 6: BAC 116, 655.

[34] Theophilus, Apologia ad Autolycum, 2,15: BAC 116, 805.

[35] Theophilus, Apologia ad Autolycum, 2,2: BAC 116, 805.

Nguồn tin: