Đặc Ân Phaolô Và Đặc Ân Phêrô

Tue,19/10/2021
Lượt xem: 5614

Hôn nhân Kitô giáo là hôn nhân độc nhất và bất khả phân ly. Khi bí tích Hôn Phối đã được cử hành hợp pháp với những điều kiện cần thiết (sự tự do, không lừa dối…) và đã hoàn hợp, thì không gì có thể chia cắt được. Vợ và chồng trong một cuộc hôn nhân như thế không thể ly dị và kết hôn với người khác. Chỉ khi nào một trong hai người chết, người còn lại mới được tái hôn. Đây là điều cần phải khẳng định lại để không dẫn đến hiểu nhầm đối với một số người cho rằng Giáo Hội cho phép ly dị. Tuy nhiên, liên quan đến việc tháo gỡ dây hôn phối, Giáo Hội có nói đến hai đặc ân: Đặc ân Phaolô và đặc ân Phêrô. 

 

1.  Đặc ân Phaolô

 

Đặc ân Phaolô có nguồn gốc từ giáo huấn của Thánh Phaolô, được ghi lại trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Còn với những kẻ khác thì tôi nói – chính tôi, chứ không phải Chúa – nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy thì người ấy đừng rẫy vợ. Người nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy thì đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại thì được thánh hóa nhờ chồng … Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia thì cứ bỏ. Trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc. Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau.” (1 Cr 7,12-15)

 

Dựa trên nền tảng này, xuất phát vì lợi ích đức tin của tín hữu, Giáo Hội đã quy định trong Giáo Luật điều 1143 cho phép giải gỡ hôn phối của hai người chưa rửa tội khi cưới nhau, mà nay, một trong hai người này xin Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo và/để kết lập một hôn phối mới, khi người phối ngẫu không rửa tội kia đã đoạn tuyệt với người này.

 

- Ví dụ 1: Anh A và chị B, cả hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A lãnh Bí Tích Rửa Tội và trở thành người Công Giáo. Chị B vẫn là người ngoài Công Giáo. Sau đó, vì lý do này mà hai người không thể sống chung hòa thuận với nhau, chị B nhất quyết đòi chia tay. Trong trường hợp này, anh A và một người Công Giáo hoặc không Công Giáo khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa phương [Đức Giám Mục Giáo Phận].

 

Nhưng hiểu thế nào về từ “đoạn tuyệt” trong quy định trên?

 

Giáo Luật điều 1143 trả lời rằng: Hiểu là đoạn tuyệt khi: Người không rửa tội không muốn chung sống với người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.

 

Ví dụ 2: Anh A và chị B, cả hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A được ơn hoán cải và muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Nhưng chị B không đồng ý với việc anh chịu Phép Rửa, khiến đời sống vợ chồng lục đục. Anh A chịu Phép Rửa và chị B quyết định ly hôn. Trong trường hợp này, anh A và một người Công Giáo hoặc không Công Giáo khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa phương [Đức Giám Mục Giáo Phận].

 

Người không rửa tội không muốn chung sống thuận hòa mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa.

 

Ví dụ 3: Anh A và chị B, cả hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A được ơn hoán cải và muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Chị B không đồng ý. Dù không ly hôn nhưng sau khi anh A chịu Phép Rửa, chị B luôn lớn tiếng xúc phạm đến Chúa khiến cho đời sống của hai vợ chồng không thể tốt đẹp được. Họ quyết định ly hôn. Trong trường hợp này, anh A và một người Công Giáo hoặc không Công Giáo khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa phương [Đức Giám Mục Giáo Phận].

 

Nhưng Giáo Luật cũng nói thêm rằng “việc đoạn tuyệt này không phải do người chịu phép Rửa Tội gây ra để kiếm cớ mà đoạn tuyệt với người đó.”

 

Ví dụ 4: Anh A và chị B, cả hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A, vì muốn cưới cô C là người Công Giáo, nên đã xin gia nhập Công Giáo, rồi về kiếm cớ gây gỗ, khiến cô B phải ly hôn anh để anh có thể cưới cô C, hoặc kiếm cớ gây gỗ khiến cô B phải ly hôn mình, rồi sau đó xin Rửa Tội để gia nhập Công Giáo. Đây là điều không được phép và đặc ân Phaolô không áp dụng trong trường hợp này.

 

Hoặc:

 

Ví dụ 5: Anh A và chị B, cả hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Chị B không có ý kiến gì và đời sống của họ không có gì trục trặc. Nhưng không lâu sau đó, anh A, vì muốn cưới chị C là người Công Giáo, nên về nhà kiếm cớ gây chuyện để ép chị B phải ly hôn. Đây là điều không được phép và đặc ân Phaolô không áp dụng trong trường hợp này.

 

Bản quyền địa phương là người có thẩm quyền ban đặc ân này. Thường, ngài sẽ cử người điều tra để xác minh những điều kiện vừa nói ở trên. Cụ thể, sẽ phải có một cuộc chất vấn dành cho người không rửa tội (chị B trong các ví dụ trên), hỏi xem chị ta có muốn chịu phép rửa giống người kia (anh A) không hoặc ít ra là có muốn sống hòa thuận với anh A mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa không. Giáo Luật 1144 còn nói rõ: “Sự chất vấn như vậy được thực hiện sau khi [anh A] rửa tội. Vì lý do quan trọng, Bản Quyền sở tại [Đức Giám Mục] có thể cho phép thực hiện sự chất vấn trước khi rửa tội, hay kể cả miễn chuẩn việc chất vấn hoặc trước hoặc sau khi rửa tội, miễn là ngài thấy rõ ràng, ít là sau một thủ tục đơn giản ngoài tố tụng, rằng việc chất vấn không thể thực hiện được, hay sẽ vô ích.” 

 

2.  Đặc ân Phêrô 

 

Khác với đặc ân Phaolô, đặc ân Phêrô không được nói rõ trong Giáo Luật và cũng không xuất phát từ giáo huấn nào của Thánh Phêrô, nhưng có ý muốn nói đến đặc ân mà Đức Giáo Hoàng (người kế vị Thánh Phêrô) ban cho tín hữu vì lợi ích đức tin của người ấy.

 

Huấn thị Potestas Ecclesiae của Bộ Giáo Lý Đức Tin, công bố ngày 30.4.2001, nói rằng: “Trong những hoàn cảnh đặc biệt nào đó, hôn nhân giữa những người không công giáo hoặc ít là một trong hai người không phải là người Công Giáo, có thể bị tiêu trừ vì lợi ích đức tin của tín hữu và vì ơn cứu độ cho các linh hồn, với năng quyền do Đức Thánh Cha ban.” Vì thế, một hôn nhân hợp pháp giữa một tín hữu Công Giáo và một người không phải Công Giáo có thể được tiêu trừ “vì lợi ích đức tin của tín hữu và vì ơn cứu độ cho các linh hồn, với năng quyền do Đức Thánh Cha ban”.

 

Nhưng làm sao để biết là mình có thể xin đặc ân Phêrô không? Một vài gợi ý sau đây được soạn thảo bởi Tổng Giáo Phận New Orleans, Mỹ, có thể trợ giúp:

 

1.  Ít là một trong hai người chưa được rửa tội (theo Giáo Hội Công Giáo) trước khi kết hôn và vẫn giữ nguyên tình trạng như thế trong suốt thời kỳ hôn nhân.

 

2.  Thực sự là không còn hy vọng gì để cả hai hòa giải với nhau.

 

3.  Người xin đặc ân Phêrô không phải là người gây ra nguyên do khiến cuộc hôn nhân bị đổ vỡ.

 

4.  Dù bên không rửa tội đã rửa tội sau đó, nhưng hai người đã không có quan hệ vợ chồng từ khi người này chịu phép rửa, vì lý do nào đó.

 

5.  Nếu người xin đặc ân Phêrô hay người-phối-ngẫu-tương-lai không là người Công Giáo, thì bên không phải là người Công Giáo ấy phải sẵn sàng cam kết là sẽ nuôi dưỡng con cái của mình theo đường hướng Công Giáo và không ngăn cản bên Công Giáo thực hành đức tin Công Giáo của mình.

 

6.  Người mà người xin đặc ân Phêrô muốn cưới có phải là Công Giáo.

 

7.  Nếu bên không rửa tội, trước đó đã cưới một người Công Giáo, và bên Công Giáo được miễn trừ khỏi mọi ràng buộc để cưới bên không Công Giáo, thì bên không rửa tội phải có ý định xin rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo. (Potestas Ecclesiae, Điều 7, triệt 2)

 

8.  Người phối ngẫu của người xin đặc ân có tự do để cưới trong Giáo Hội Công Giáo.

 

9.  Người phối ngẫu không phải là nguyên nhân gây ra đổ vỡ cho hôn nhân của người xin đặc ân.

 

10.   Bên Công Giáo được chủ động thực hành đức tin của mình.

 

11.   Việc ban đặc ân sẽ không gây ra cớ vấp phạm hay làm hoang mang cho các tín hữu.

 

Nếu tất cả mọi điều kiện trên được thỏa mãn thì có thể làm hồ sơ để xin đặc ân Phêrô. Tuy nhiên, phải nhớ rằng việc xin là một chuyện, việc có được chấp nhận hay không lại là chuyện khác.

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Nguồn tin: dongten.net