Sự Đau Khổ Của Con Người Trong Upanishads

Fri,09/12/2022
Lượt xem: 969

    

Riêng đi vi n giáo, đa v ca Upanishad là đa v s mt c trong đa ht tôn giáo ln triết hc. Upanishad được ví như là Tân ước ca người Ki-tô giáo[1]. Bi vì, ni dung ca Upanishad là mt giáo lý cao siêu và bí truyn. Trong cái huyn bí cao siêu y, đim xut phát không gì khác là chính con người, chính nhng khc khoi, lo âu, đau kh,mong mun được gii thoát đ có được mt cuc sng thanh thn hnh phúc. Vy, theo Upanishads, đau kh có ngun gc t đâu, làm thế nào đ vượt qua nhng đau kh y. Bài viết s c gng đi tìm câu tr li tha đáng nht cho nhng vn đ này.

Trong Upanishads, nhng đau kh đè nng lên cuc đi con người được quan nim nm ngay trong thân th, trong ý trí, trong tình cm, trong kiếp người và trong c thế gii hin tượng biến đi và vô thường này. Bi vì, khi nhìn v vũ tr, n giáo cho rng, vũ tr này là o (maya), không tht[2]. Thiên nhiên vn vt không thc hu. Thân xác con người cũng không thc hu. Con người mang trong mình thân phn kh t, và con người y phi sng trong mt tình trng tha hóa, không là chính mình, nên con người có nhng đau kh. Nói mt cách c th hơn:

Con người chu đau kh là do con người mang thân phn là ghét b, không bao gi tha mãn vi nhng gì đang có. Chúng ta nhn thy trong chính con người chúng ta s thúc đy bi nhng khát vng, thèm mun, nhng th mà chng bao gi tha mãn. Bi vì, có nhiu khát vng chng bao gi có th tr thành hin thc, hoc nếu chúng ta được tho mãn thì nhng tha mãn y ch là phù du. Khi mt khát vng được tha mãn thì mt khát vng khác s xut hin, và tiếp tc như thế mà không bao gi có đim dng. Chúng ta tha mãn đi tượng này thì li phát sinh đi tượng khác. Tiến trình ca khát vng này c tiếp din không ngng và không bao gi cho chúng ta no tha. Kết qu, dn đến làm cho chúng ta chán nn và đau kh.” [3]

Hơn na, con người chu đau kh là do thân phn con người mang theo s khng hong v căn tính ca mình[4] (tôi là ai?). Con người không biết mình thc s là ai. n Giáo cho rng con người có hai ngã. Cái ngã thường nghim (java) là cái ngã t ý thc ca cá nhân trong đi sng hng ngày; là cái tôi tn ti trong không gian và thi gian, trong thế gii o. Đây không phi là ngã thc. Ngã th hai là atman. Đây là cái ngã thc và là phn thánh thiêng ca con người. Ngã này không nm trong không gian và thi gian. Atman[5] là hơi th ca cuc sng. Nó là phn trường tn ca con người, là cái thiết yếu thc s ca con người. Mc đích ca cuc sng là nhn ra bn cht tht s này, đ kinh nghim cái tôi con người như là nhng cách din t khác nhau ca cái tôi ph quát, Brahma. Atman là Brahma. Tuy nhiên, trong cuc sng, con người thường không nhn biết được cái ngã th hai (atman), ngược li, có khi li đ cao quá mc cái ngã thường nghim. Như vy, con người mang ly trong mình mt thân phn ngu mui. Ngu mui là bi l con người không nhn ra mình thc s là ai. Vì ngu mui, nên con người đau kh. Con người b kéo vào trong vòng xoáy ca nhng đam mê bt tn, vn gây nên đau kh.

Vy, đ nhn biết được bn ngã đích thc ca con người (atman), chúng ta cn có được s hiu biết mc đ thượng trí. Upanishad đã chia s nhn thc ca con người thành hai trình đ hiu biết khác nhau: h trí và thượng trí”[6]. H trí là tri thc phn ánh thế gii s vt, hin tượng c th, hu hình, hu hn, thường biến, mà thc cht ch là s biu hin khác nhau ca Tinh thn vũ tr ti cao (Brahma). Nó gm có tri thc như: khoa hc thc nghim, ng pháp, ng âm hc, sách nghi thc, thiên văn hc, Nhn thc h trí được nhn thc ngang qua giác quan và trí năng. Chúng giúp con người có th sng sót trong thế gii, thế gii ca o nh (maya).Thượng trí là trình đ nhn thc vượt qua tt c thế gii hin tượng, hu hình, hu hn, biến o đ nhn thc mt giá tr tuyt đi, duy nht, ti cao, bt dit. Đó là Brahman hay linh hn vũ tr ti cao. Thượng trí là cái biết nh đó mà người ta biết được cái gì chưa biết mà cũng như hc ri, chưa nghĩ mà cũng như đã tng nghĩ đến ri, chưa tng hiu mà cũng như đã hiu ri. Bng nhn thc thượng trí, khi đã hiu biết được thc ti tuyt đi ti cao, nm bt được bn cht ca mi cái tn ti, tìm ra chân bn tính ca mình, phân bit linh hn bt t vi th xác hu hình, hu hn, vô thường[7] y, s đưa con người đến s gii thoát. Vì thế, câu ngn ng c n đ đã nói: hiu biết thc s là hiu biết có th đưa ta ti t do.

Khi nhn biết được cái ngã đích thc (atman), con người s gii thoát được đau kh ca mình bng cách hòa nhp cái ngã đích thc (atman) vào bn th tuyt đi, ti cao (Brahman).

V bn cht, Atman là đng nht vi Brahman, nên linh hn cá bit cũng tn ti vĩnh vin, tuyt đi, bt dit như Tinh thn vũ tr ti cao (Brahman). Nhưng vì linh hn bt t được th hin trong mi thân xác con người trong đi sng trn tc, nên ý thc người ta lm tưởng rng linh hn là cái khác vi Tinh thn vũ tr ti cao, cũng sinh t như đi sng thân xác con người. Nhng ý chí, dc vng và nhng hành đng ca con người nhm làm tha mãn nhng ham mun vt cht, danh li ca mình đã che đi bn tính chân thc ca con người. Vy, đ gii thoát linh hn khi nhng ràng buc ca nhng ước mun trn tc đ có được trng thái đng nht vi Tinh thn vũ tr ti cao, con người phi da vào chính lý trí ca con người, bng s tu luyn đo đc và tu luyn tri thc, dày công thin đnh, chim nim ni tâm, trm tư mc tưởng đ đt ti đi giác, nhn ra chân bn tính ca mình và thc tướng ca vn vt, t đó dt b được mi s ràng buc, lôi kéo làm m tâm tính bi thế gii vt dc biến o vô thường, dit b mi quan nim ca thế tc v sng chết và nhng lo âu, kh não ca cuc đi, đt ti s đng nht ca linh hn vi Tinh thn sáng to vũ tr ti cao.

Nói cách khác, con đường gii thoát cho con người khi đau kh, ngu mui chính là s giác ng đ nhn ra bn tính tht ca mình. Con người không phi là mt cái tôi hu hn, yếu t, nhưng là vô hn, vĩnh cu, atman, thánh thiêng, và là mt phn ca đi dương Brahma mênh mông. Vì ch có thượng thn Brahma là ti cao. Nên nhn ra s tht atman là Brahma s giúp con người được gii thoát[8]. C th hơn, có bn con đường dn đến s gii thoát[9] : (1) Bhakti yoga là vic th phượng Thượng đế; (2) Karma yoga là làm vic thin; (3) Raja yoga là vic suy nim; và (4) Ginana yoga là vic suy tư triết hc. Gii thoát khi con người phá đ nhng o tưởng, thoát khi vòng luân hi và tháp nhp vào Thượng đế.

Như vy, gii thoát khi đau kh là s xóa b mi ràng buc ca thế gii s vt, hu hn, thường biến, đ đt ti s giác ng, đưa tiu ngã (atman) hòa nhp vào đi ngã (Brahman). Theo Upanishad, chng nào chưa giác ng và thc hin s đng nht gia atman và brahman thì chng đó con người còn b ràng buc trong thế gii o (maya), và khi đó con người vn phi chu nhng đau kh.[10]

Tóm li, Trong Upanishads, nhng đau kh đè nng lên cuc đi con người được quan nim nm ngay trong thân th, trong ý trí, trong tình cm, trong kiếp người và trong c thế gii hin tượng biến đi và vô thường. Bi vì, vũ tr theo nhãn quan ca n giáo là o (maya), không tht. Đ gii thoát khi s đau kh, Upanishad đã ly con người, ly nhân sinh làm trung tâm. Đt con người, xem xét đi sng con người trong s hòa hp vi vũ tr, coi vũ tr là s phn nh rng ln ca con người, hay con người là tiu vũ tr trong cái đi vũ tr.

 Nguyn Văn Hòe

Hc Vin Thánh Giuse Dòng Tên

Tài liu tham kho

Doãn Chính, Tư Tưởng Gii Thoát Trong Triết Hc n Đ, Nxb Thanh Niên Hà Ni, 1999.

Hoành Sơn, Triết S n Đ, Nxb Hưng Giáo Văn Đông, 1970.

Pojman, Louis, P., Who Are We, Oxford University Press, New York, 2006.

Jordan, Michael, Minh Triết Đông Phương, Phan Quang Đnh chuyn ng, Nxb M Thut, 2004.

[1] Hoành Sơn, Triết S n Đ, Nxb Hưng Giáo Văn Đông, 1970, tr 91.

[2] Pojman, Louis, P., Who Are We, Oxford University Press, New York, 2006, P 86.

[3] Ibid., tr 88.

[4] Đ làm rõ s khng hong căn tính ca con người, các hc gi n Đ đã mô t bng câu chuyn chú sư t con. Sư t con được sng t nh vi đàn chiên, nên sư t con sng như nhng con chiên, do đó sư t con c nghĩ mình ging như nhng chiên con mà không biết thc su mình là sư t.

[5] Trong quyn Chandogya Upnishad, mt ông b dy cho con là Shvetaketu, v bn cht ca Atman bng ngôn ng gin d thường ngày. Ông bo con ct mt trái v ra làm đôi. Bên trong, đa con nhìn thy nhng ht nh xíu và ông b bo nó ly mt ht đó và ct làm đôi. Khi được hi thy gì không, cu con trai lc đu và tr li: không có gì. Ông b gii thích cho cu rng: cái không có gì đó là ct lõi t đó mt cây v đã ln lên. Cái ct lõi tinh yếu đó thì vô hình và cu phi tưởng tượng atman là thế đó. (Trích: Jordan, Michael, Minh Triết Đông Phương, Phan Quang Đnh chuyn ng, NXB M Thut, 2004, tr 47.)

[6] Pojman, Louis, P., Who Are We, Oxford University Press, New York, 2006, P 87.

[7] Vô thường có nghĩa là mi s đu thay đi, không có s vt nào bt biến trong hai thi đim ni tiếp nhau. (trích: Thích Nht Hnh, Không Dit Không Sinh Đng S Hãi, Không rõ nhà xut bn, tr 29.)

[8] Pojman, Louis, P., Who Are We, Oxford University Press, New York, 2006, tr 90.

[9] Ibidem.

[10] Doãn Chính, Tư Tưởng Gii Thoát Trong Triết Hc n Đ, Nxb Thanh Niên Hà Ni, 1999, tr 46.

 

Nguồn tin: dongten.net
Tags :