Mỗi khi nghe câu, “Đó là Lời Chúa” sau các bài đọc trong Thánh Lễ thì Kitô hữu đáp “Tạ ơn Chúa.” Đáp từ này nói lên sự trân trọng đối với mặc khải của Thiên Chúa qua “Lời Chúa”. Nhưng chúng ta vẫn biết có sự khác biệt giữa “Lời Chúa” trong bản văn Kinh Thánh và “Ngôi Lời” qua biến cố Nhập Thể. Chúng ta phải hiểu và sống “Lời Chúa” như thế nào để có thể tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Trong Do Thái giáo cũng thế, các Kinh Sư phải giải thích Torah như thế nào để người nghe nắm bắt được bản chất chân thật của Torah, tức là sự hiện diện của Yaweh giữa lòng dân. Họ dùng phương pháp Aggadah để khai triển “Mitzvot” (luân lý và lề luật) giúp tín đồ vươn lên đến Torah, và dùng phương pháp Kabbalah để suy diễn trật tự thánh thiêng của vũ trụ tiềm tàng trong các ẩn dụ và ý nghĩa thần bí của Torah. Đức Giêsu và các tông đồ, được sinh ra và trưởng thành trong Do Thái giáo, nên rất quen thuộc với các lối chú giải này. Đến khi phải giảng dạy, các ngài đã thêm vào đó những nguyên tắc chú giải mới cho phù hợp với bối cảnh và nhu cầu sứ vụ của mình. Trong bài này, chúng ta sẽ lược qua cách Đức Giêsu trích dẫn Cựu Ước trong khi rao giảng về Nước Trời, và cách Phaolô và các tác giả Tin Mừng dùng hình ảnh trong Cựu Ước để diễn giải về biến cố Kitô. Cho dù khác nhau về phương pháp, nhưng tất cả các tác giả này đều muốn chứng tỏ rằng biến cố Kitô chính là thực tại của những hình bóng mà Cựu Ước đã nói đến.
Đức Giêsu chú giải Cựu Ước qua kinh nghiệm “Abba”
Do Thái giáo cho rằng toàn thể Torah xuất phát từ thẩm quyền của Thiên Chúa và được mặc khải qua lời của Môisen. Nhưng Chúa Giêsu phân biệt giữa luật Thiên Chúa và luật của Môisen đặt ra cho dân cứng lòng trong sa mạc (Mk 10:2). Đôi khi Thần Khí Thiên Chúa nói qua con người, như trong trường hợp Môisen cho phép dân ly dị hoặc Vua David ăn bánh thánh dâng trong đền thờ. Đức Giêsu tố cáo các Kinh sư đã lạm dụng và coi thường luật Thiên Chúa. Họ chỉ lo biện hộ cho truyền thống của họ về qui luật phụng vụ (Mk 2:25) hay nghi thức thanh tẩy (Mk 7).
Làm sao phân biệt lối chú giải nào được soi sáng bởi Thần Khí và lối diễn giải nào là lạm dụng lề luật? Cách trả lời của Đức Giêsu thường nhắm vào lòng thương xót của Thiên Chúa (Mt 9:13), nhu cầu hoán cải tâm hồn của tội nhân (Isa 29:13), và phục hồi nền tảng luân lý của lề luật. Đức Giêsu phản đối việc dùng nơi thờ phượng để kinh doanh (Mk 11:17). Người đặt lòng nhân từ trên lề luật, nhu cầu chữa lành trên ngày Sabbath (Jn 7:22), và truyền thống ngôn sứ trên truyền thống tư tế. Người tóm tắc sách Đệ Nhị Luật vào điều răn “Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (Mk 9:29) và thêm vào đó đòi hỏi của Liviticus “yêu tha nhân như chính mình” (Mk 12:31). Người tóm tắt Cựu Ước cho tất cả những ai muốn theo Người khi tuyên bố, “Không có quy luật nào cao cả hơn các quy luật này”, và tất cả luật lệ và ngôn sứ đều bao gồm trong hai qui luật này (Mt 22:40).
Một nguyên tắc khác nữa là tính độc lập trong cách Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh. Người thường nói. “Anh em đã nghe… nhưng tôi nói.” Đức Giêsu phê bình thái độ khắc khe về lề luật của nhóm Phariseu nhưng lại không coi thường luật lệ. Người đã củng cố và phục hồi ý nghĩa chân chính của lề luật và lời ngôn sứ, vì các lời đó đang nói về Người. Chính Người là sự ứng nghiệm của lời tiên tri của các ngôn sứ, “Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần kề” (Mk 1:15). Đây không phải là điều gì bí ẩn vì ai cũng biết Kinh Thánh nói Elijah phải đến trước, và Đấng Messiah phải chịu đau khổ và bị loại trừ. Người giải thích các phép lạ làm cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi như là sự ứng nghiệm lời Tiên tri trong Cựu Ước (Mt 11:5, Lk 7:22). Lúc biết mình sắp ra đi, Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể như giao ước mới mà tiên tri Jeremiah đã báo trước. Người cẩn thận nhắc nhở người phong hủi được chửa lành phải đi trình cho các kỳ mục biết như luật Môisen buộc phải làm (Mk 1:44).
Cuối cùng, Đức Giêsu chú giải Cựu Ước từ kinh nghiệm về “Abba và Nước Trời”. Ngài khẳng định rằng, với sự hiện diện của Người thì lề luật được thay thế bằng tình yêu của Thiên Chúa. Ai tin vào luật Môisen mà không tin vào Đức Giêsu là đã sai lầm rồi vì Môisen nói về Người (Jn 5:46). Chúng ta hiểu sai lề luật nếu không tuân theo thần khí ngôn sứ đã đến để dạy cho chúng ta (Jn 8:17). Người dùng cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực để nói về vai trò “ứng nghiệm” của mình. Lối chú giải Cựu Ước của ngài dựa trên lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Cha được dân chúng tán thành và khâm phục nhưng cũng bị các Kinh Sư lên án và chống đối. Nói chung, nguyên tắc chú giải của Đức Giêsu có thể được tóm tắc qua câu nói của chính Người: “Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi từ Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13:52).
Thánh Phaolô chú giải Cựu Ước qua trải nghiệm hoán cải
Thánh Phaolô rất quen thuộc với truyền thống Torah lẫn các bản văn ghi lại lời giảng của Đức Giêsu. Cả Phaolô và Đức Giêsu đều chống lại chủ nghĩa duy lề luật của nhóm Phariseu. Phaolô tóm tắc tinh thần của lề luật vào một nguyên tắc chung: “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình.” (Gal 5:14, Rom 13:9). Nhưng vì sống sau biến cố Đức Kitô gần 20 năm, những kinh nghiệm của Phaolô về trải nghiệm hoán cãi, ơn cứu rỗi từ Đấng Sống Lại, đời sống đức tin và bí tích của Giáo Hội Kitô đã để lại dấu ấn trên cách ngài giải thích Cựu Ước. Ngài dùng phương pháp ẩn dụ để nhân cách hóa và luân lý hóa Cựu Ước, và dùng Cựu Ước để làm sáng tỏ ý nghĩa của đức tin Kitô giáo và đời sống giáo hội. Các trình thuật về sự sa ngã của Adam, cuộc lưu đày ở Ai-cập, biến cố xuất hành, thanh tẩy ở sa mạc, vào đất hứa, v.v., là hình ảnh về những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc đời của Đức Kitô và Giáo Hội. Đức Giêsu được xem như là “Adam thứ hai”, các tổ phụ chịu “phép rửa” bằng đám mây và biển đỏ qua biến cố Xuất Hành, và được “nuôi dưỡng” bằng thức ăn và uống thiêng liêng trong sa mạc (1 Cor 10:2).
Trong khi Đức Giêsu chấp nhận con đường thập giá thì Phaolô nhấn mạnh vào sự ô nhục của thập giá để vạch trần sự khao khát vô vọng của triết lý Hy-La trong hành trình tìm kiếm sự khôn ngoan. Phaolô dùng tài hùng biện và khả năng trực giác của mình khi giải thích tình trạng nước đôi của lề luật. Một mặt, lề luật là công chính và thiện hảo vì nó đến từ Thiên Chúa (Rm 7:12). Nhưng mặt khác, “tình yêu là sự ứng nghiệm của lề luật” (Rm 13:10), và ý nghĩa của Cựu Ước không là chính nó mà nằm trong tương quan với Đấng sẽ đến (Mt 12:38, Lk 11:29). Như thế, Phaolô đã nới rộng phương pháp “ứng nghiệm” của Đức Giêsu qua cách khai thác khía cạnh tiên trưng của Kinh Thánh. Những phúng dụ, lời nói bóng, và hình ảnh trong Cựu Ước là hình ảnh cho thực tại thiêng liêng hay tội lỗi trong Giáo Hội. Ví dụ, Đức Giêsu phục hồi những gì Adam đã đánh mất (1 Cor 15), hai đứa con trai của Abraham, một sinh ra bởi thân xác tội lỗi và một sinh ra bởi lời hứa của Thiên Chúa, là hình bóng của hai lời giao ước ở Sinai và ở Jerusalem (Gal 4:22-26). Trong các thư mục vụ, ngài thường dùng kinh nghiệm cá nhân như mô phạm hay gương sáng để khuyên bảo anh em sống và hiểu Lời Chúa (2 Thess 1:7, 1 Cor 10:6).
Phương pháp chú giải theo ẩn dụ, xuất phát từ triết học Stoic, có thể đi xa hơn phương pháp “ứng nghiệm”. Trong khi “ứng nghiệm” tùy thuộc vào các sự kiện lịch sử, thì “ẩn dụ” mở ra các mức độ ý nghĩa tiềm ẩn khác nhau trong Cựu Ước về biến cố Kitô . Đối với Phaolô, từ ngữ thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa trung tâm: Đức Giêsu chính là Đấng Messiah mà cả Kinh Thánh phải được hiểu qua nhãn quan của biến cố chết, sống lại và sứ mệnh của Người. “Biến cố Kitô” cho chúng ta một trung tâm chú giải mới về “lịch sử cứu độ”, khởi đầu từ Israel cũ rồi đến Israel mới là Giáo Hội, từ Adam thứ nhất đến Adam thứ hai là Đức Kitô. Sự kiện lịch sử được xem như là phúng dụ (allegory) giúp Kitô hữu hiểu rõ hơn về hành trình đức tin và tội lỗi của mình. Sự bất tuân của Adam mang tội lỗi và sự chết vào thế gian (Rom 5:12), đức tin của Abraham công chính hóa ông trước mặt Thiên Chúa (Gal 3:6). Cuối cùng, “biến cố Kitô” mặc khải cho chúng ta sợi dây liên kết phổ quát của toàn thể nhân loại: “Như trong Adam tất cả phải chết, thì trong Đức Kitô tất cả sẽ được cho sống lại” (1 Cor 15:22).
Ngoài phúng dụ, Phaolô còn dùng biểu tượng (symbol) để khai thác trí tưởng tượng của các tín hữu khi cần kết nối niềm tin Kitô giáo với các biến cố Cựu Ước. Ví dụ, Đức Kitô chính là hiện thân của Đức Khôn Ngoan và là đầu của Giáo Hội (1Cor 10). Thức ăn và nước uống thiêng liêng, tảng đá gốc thiêng liêng của các Tổ Phụ Do thái được liên kết với bánh từ trời, nước hằng sống, và đá tảng thật chính là Đức Kitô. Khăn che mặt của Môisen khi tiếp cận với Đức Chúa là hình ảnh của cách người Do Thái tiếp cận Cựu Ước. Nhưng màn che đó đã được tháo bỏ một khi Thần Khí Thiên Chúa giải thích Kinh Thánh trực tiếp nơi con tim của các Kitô hữu. Đó là ý nghĩa của tự do khi lề luật được công chính hóa bằng đức tin và ân sủng (2 Cor 3:14). Chủ nghĩa duy lề luật tiêu diệt tính thiêng liêng của Cựu Ước, làm cho ta bị mù quán, không nhận ra những mầu nhiệm bí ẩn và hình ảnh Thiên Chúa ẩn dấu trong đó.
Là vị Tông Đồ cho dân ngoại, Phaolô muốn thuyết phục họ cách hiểu biết chân chính về Cựu Ước qua đức tin và ân sủng. Ai không chấp nhận lối giải thích này là đui mù vì nó có thể hiểu được dựa trên lý trí (2 Cor 4:2, Rom 2:15). Bối cảnh gốc của Cựu Ước thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa nó mang lại cho chủ đề Kitô học. Vì lẽ, “bất cứ điều gì đã được viết xuống trước đây thì được viết để dạy dổ chúng ta… Niềm hy vọng đây chính là Đức Kitô phục sinh và quang lâm” (Col 1:15). Chủ nghĩa duy lề luật chỉ là một khung tri thức hạn hẹp, không thể soi sáng cách Cựu Ước ám chỉ về Đức Kitô, mà chỉ làm cho lời rao giảng của chúng ta trở thành vô nghĩa. Sau khi ngài trở lại, động lực bền vững nhất trong cách Phaolô chú giải Kinh Thánh chính là kinh nghiệm cá nhân: “không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi (Gal 2:20).
Tân Ước chú giải Cựu Ước qua biến cố Kitô
Các tác giả các Tin Mừng dùng cả ẩn dụ và biểu tượng, nhưng nhấn mạnh hơn về phương pháp tiên trưng (typology) trong cách họ chú giải Cựu Ước. Phương pháp tiên trưng giải thích rằng các biến cố trong cuộc đời của Đức Giêsu đã được Cựu Ước biết trước, nhưng chỉ được tiên báo bằng ngôn ngữ hình tượng và ngôn sứ. Chân lý chứa đựng trong Cựu Ước được Chúa Giêsu hoàn thực. Thánh Linh sẽ chọn thời gian và không gian để tác động lên sự hiểu biết của người nghe, giúp họ nhận thức các chân lý này. Phương pháp chú giải tiên trưng giả định một sự hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, giữa biến cố Cựu Ước và thực tại đang được trình thuật lại trong Tân Ước. Chỉ khi người đọc biết dùng phương pháp này thì họ mới hiểu đúng các sách Ngôn Sứ. Vì lẽ, các tác giả Cựu Ước không chỉ chép lại sự kiện lịch sử, nhưng đã viết với nhãn quan hướng về Đấng Thiên Sai sẽ đến và hành trình tương lai của dân tộc họ. Vì thế, ý nghĩa của biến cố Kitô sẽ được làm sáng tỏ qua những hình ảnh mà lịch sử và ngôn sứ nói đến trong Cựu Ước. Phương pháp này dùng kỷ năng tưởng tượng và đồng cảm hơn là lôgic. Sự tương đồng giữa hai giao ước tùy thuộc vào khả năng sáng tạo ý nghĩa thiêng liêng và luân lý chứ không chỉ bối cảnh lịch sử của bản văn.
Chúng ta hãy sơ lược qua cách các dùng phương pháp tiên trưng trong Tân Ước. Trước tiên, Thư Do Thái được viết để an ủi và củng cố đức tin của những người bị tổn hại sau khi trở thành Kitô hữu. Họ phân vân có phải tại vì Đức Kitô mà cuộc sống của họ đã trở nên chao đảo. Thư Do Thái giải thích rằng tất cả lễ nghi linh đình tại đền thờ chỉ là “hình bóng” của một sự kiện khác vĩ đại hơn nhiều. Ơn thứ tha tội lỗi, sự tôn thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và niềm khác vọng của toàn bộ Cựu Ước, tất cả phải do vị tư tế chân chính của toàn thể nhân loại là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thực hiện thì mới được hoàn tất. Hình ảnh tư tế “Melkizedek”, vốn cao trọng hơn hàng tư tế của phái Levi, được dùng để minh họa cho vai trò tư tế vĩnh cửu của Đức Kitô. Lối chú giải này lý luận từ hình bóng đến thực tại, từ sự kiện tạm bợ đến vĩnh cửu, và từ tính mỏng giòn yếu đuối của con người đến sự hoàn hảo và siêu việt của Thiên Chúa. Đây là lối kết nối biến cố lịch sử theo quan điểm nhị nguyên “thực tại/ảo ảnh” của triết học Platô.
Các Tin Mừng nhất lãm dùng cả phương pháp tiên trưng lẫn ứng nghiệm. Tin Mừng Matthew xem Đức Giêsu như là ứng nghiệm của lề luật trong sự hoàn tất của giáo huấn luân lý: “một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không qua đi cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Mọi biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu: ra đời tại Bethlehem, được các đạo sĩ ngoại giáo biết là Vua dân Do Thái, chạy trốn sự bách hại của Herôđê, trở về từ Ai-cập, bài giảng từ trên núi, biến hình, v.v., tất cả đều được hổ trợ với bằng chứng trích dẫn từ các sách Xuất hành, Samuel, Hosea, Jeremiah. Việc trích dẫn chứng cớ lịch sử của Matthew thì không hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên, Tin Mừng Matthew trích dẫn nhiều sự kiện sự trùng hợp giữa Cựu Ước và cuộc đời của Đức Kitô cho ta thấy mục đích của tác giả là muốn minh chứng Đức Kitô như Môisen mới mang đến lề luật mới và lời tiên tri đã được ứng nghiệm.
Trong khi Matthew giải thích sự ứng nghiệm của lời tiên tri qua Đức Kitô, thì Luca cho thấy sự ứng nghiệm đó xảy ra cho dân ngoại. Luca nhắm vào sứ mệnh và ơn gọi của dân Chúa được tuyển chọn. Ngay từ đầu, các Bài Ca “Magnificat” và “Benedictus” cho chúng ta một cái nhìn về lịch sử ân sủng Thiên Chúa đã ban tặng cho dân Israel. Cuối bản Tin Mừng, Đức Kitô phục sinh cũng đã hai lần trách móc các môn đệ về sự chậm hiểu của họ về Kinh Thánh. Người mở lòng trí và giải thích cho họ biết những gì sách Ngũ Kinh, các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh nói về Người. Lưu tâm của Tin Mừng Luca không về sự ứng nghiệm của lời tiên tri nhưng là sự đóng lại màn lịch sử cũ và mở ra một sân khấu mới với sứ mệnh mới cho dân Israel mới, đó chính là cộng đồng các Kitô hữu, hay giáo hội. Nói chung, cả hai Tin Mừng Matthew và Luca đều phải tìm cách giải quyết mối tương quan giữa “Bình cũ/Rượu Mới”, tiêu biểu cho mặc khải Cựu Ước và sứ vụ của Đức Kitô.
Tin Mừng Gioan tuy không trực tiếp trích dẫn Cựu Ước, nhưng vẫn dùng các chủ đề của Cựu Ước để làm khung cho các bài giảng thuyết về Thần Khí Thiên Chúa đang đồng hành với Đức Kitô. Gioan dùng phạm trù “Logos” để tạo nhịp cầu giữa “biến cố Kitô” với nền văn hóa ngoại giáo và các Tông Phụ sau 100AD. Cựu Ước được xem như là hậu cảnh “bóng tối” mà “ánh sáng” của “Logos” đã chiếu soi vào, xuyên qua các ngôn sứ và những ai đã từ chối ánh sáng đó. Những ai đón nhận thì được ơn làm con Thiên Chúa và được hiệp thông trong mầu nhiệm của sự sống với Thiên Chúa. Tính siêu việt của Đức Kitô được tiền tri qua Cựu Ước (Isaia 6:5), nhưng đó chỉ là hình bóng của Thiên Chúa. Vì không ai có thể thấy Thiên Chúa, trừ khi được con Thiên Chúa mặc khải cho. Ở đây có sự so sánh giữa mặc khải của Hòm Bia Thánh trong Cựu Ước với mặc khải siêu việt và hoàn hảo hơn, chính là thân thể của Đức Kitô. “Lề luật thì được ban cho Môisen, nhưng ân sủng và chân lý thì qua Đức Giêsu Kitô” (Jn 1:17).
Các Thư Mục Vụ của Timothy và Titus ở cuối thế kỷ thứ I mang ảnh hưởng giáo hội học của Phaolô. Lề luật là tốt nhưng phải được chú giải theo Thần Khí Đức Kitô, vốn được ân ban để xây dựng cộng đồng dân Chúa. Phaolô dùng sự hiểu biết về Cựu Ước và kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn Kitô để khuyên bảo Timothy: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc… Tất cả sách thánh đều do Thiên Chúa linh ứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tim 3:14-18).
Sau hết, Tân Ước nhắc nhở chúng ta rằng việc chú giải Cựu Ước sẽ không bị giới hạn bởi những gì được tranh luận và viết xuống. Đức Giêsu còn nhiều điều muốn nói về Kinh Thánh nhưng Thần Khí Thiên Chúa sẽ là người dạy và nhắc nhở các môn đệ về những gì Đức Giêsu giảng dạy và dẫn dưa họ đến chân lý. Ý nghĩa của Cựu Ước sẽ được mở rộng bằng chính đời sống và lời chứng tá của các Kitô hữu. Tuy nhiên, trước khi các lối diễn giải Kinh Thánh được qui tụ lại thành những trường phái đặc thù thì Giáo Hội sẽ trải qua giai đoạn mà các Tông Phụ tranh luận với nhau về nền tảng và giới hạn của linh ứng nơi các “bản văn” mới. Các tranh luận này cũng chính là thời gian cần thiết cho sự thành hình của “Qui Điển Tân Ước” (New Testament Canon) trong Giáo Hội non trẻ.
Fr. Joseph Tân Nguyễn, ofm
Nguồn tham khảo:
- Joseph Tân Nguyễn, OFM. Thông Diễn Học, NXB Đồng Nai, 2022.,
- Robert Grant & David Tracy. A Short History of the Interpretation of the Bible. Fortress Press, 1985.