SƠ LƯỢC VỀ THÔNG DIỄN HỌC / GIẢI THÍCH HỌC[1]
Một cách ngắn gọn, thông diễn học giải thích học là môn học tìm cách trả lời cho câu hỏi, “thế nào là hiểu”? Nhưng cách chúng ta tiếp cận vấn đề “hiểu” cũng tùy thuộc vào tình huống xã hội và phạm trù tri thức dùng để hiểu. Hơn nữa, đối tượng của “hiểu” thì không chỉ là bản văn, tác phẩm nghệ thuật, con người, hay bối cảnh lịch sử nhưng bao gồm tất cả mọi hình thức thông diễn liên quan đến việc dùng biểu tượng. Với ảnh hưởng của trào lưu lãng mạn và triết học tân thời, thông diễn học đã sớm trở thành một triết thuyết phổ quát, dùng trong khoa bình giải văn học và nghiên cứu điều kiện căn bản cho mọi khả năng thông diễn. Câu hỏi trước đây, “Phải chú giải bản văn như thế nào?” thì nay được thay thế bằng, “Đâu là những điều kiện của sự hiểu?” Sự chuyển hướng trong triết học hiện đại cho thấy vấn đề hiểu thì không thể tách biệt ra khỏi vấn đề tồn tại của con người trong lịch sử. Thông diễn học hiện đại đã mở ra những chân trời phê phán mới, tạo cơ hội cho triết học Tây Phương truy xét lại các giả định nền tảng của mình về cách tiếp cận và điều kiện của việc am hiểu.
PHẠM VI HOẠT ĐỘNG CỦA THÔNG DIỄN HỌC
Từ “Hermeneia” có gốc là “Hermes,” tên của một vị thần Hy Lạp (người đưa tin) có nhiệm vụ hoán chuyển thông tin của thần minh thành ngôn từ (chữ viết) để con người có thể hiểu. Trong truyền thống cổ xưa, đọc một bản văn cùng một lúc vừa là tuyên bố vừa là giải thích, diễn dịch và chú giải khi ý nghĩa chưa được rõ ràng. Aristotle (384-322 BC) đưa ra một số phương pháp để giải thích chân lý của mệnh đề, bao gồm các hạn từ, phạm trù, cách chú giải ý nghĩa, phân tích (hậu nghiệm và tiên nghiệm), và các hình thức lý luận (logic). Ngôn ngữ là ký hiệu của khái niệm từ tâm hồn về thế giới bên ngoài; tuy ký hiệu thì khác nhau, nhưng khái niệm bên trong thì giống nhau cho toàn thể nhân loại. Vì thế, mục đích của chú giải là kiểm soát xem ngôn ngữ có thực sự có phản ảnh thực thể bên ngoài không.
Mười tám thế kỷ sau đó, Montaigne (1533-1592), qua lăng kính hoài nghi về thẩm quyền ngoại tại của thời Phục hưng, đặt lại vấn đề tri thức bằng câu hỏi “Tôi có thể biết gì?” (Que sais-je?). Montaigne ghi nhận rằng thông diễn học không cho chúng ta một tri thức khách quan nào mà chỉ là “giải thích về giải thích.” Khi giải thích một bản văn, vốn là biểu hiện ngôn ngữ của một sự am hiểu nào trước đó, chúng ta chỉ bình phẩm về cách dùng ngôn ngữ, cách trình bày quan điểm và mối tương quan giữa ngôn từ và ngữ cảnh. Chân lý chỉ là vấn đề tương quan giữa các ngữ cảnh.
Giữa hai quan điểm khác biệt trên đây là một tiến trình thay đổi trong lịch sử của thông diễn học mà chúng ta sẽ đi sâu hơn trong các chương kế tiếp. Tiến trình thay đổi này có thể được phác họa một cách phổ quát qua ba phạm vi mà ý nghĩa có thể được khai thác: ngôn ngữ của bản văn, tác giả hay bối cảnh xuất xứ của bản văn, và những gì người đọc mang vào tiến trình thông diễn bản văn. Nói cách khác, chúng ta có ba không gian để nghiên cứu vấn đề hiểu: “bên trong” bản văn, “phía sau” bản văn, và “phía trước” bản văn.
Trước tiên, ý nghĩa có thể được khám phá từ “bên trong” bản văn. Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm cho rằng ngôn ngữ là biểu tượng hay ký hiệu cho thực tại mà nó ám chỉ, có thể là thực tại thể lý hay thực tại tâm linh. Mối tương quan giữa ý nghĩa của ngôn từ và ý vị mà nó ám chỉ có thể được xác định theo nghĩa nguyên văn hay nghĩa ẩn dụ, và lịch sử hay tiên trưng. Chú giải ngôn ngữ có thể từ nhãn quan luân lý, duy lý hay thần bí. Có sự hổ tương giữa luận điểm và cấu trúc của bản văn, hay giữa ý nghĩa của từng phần và toàn phần bản văn. Sẽ cần môn tu từ học để giải mã các ngôn ngữ xa lạ và điển tích mà ý nghĩa của nó đã trở thành mơ hồ vì khoảng cách thời gian và văn hóa. Cũng có ý kiến cho rằng, khoảng cách lịch sử thì không quan trọng bằng khoảng cách tâm linh. Người đọc cần phải có một sự thanh luyện tâm hồn trước khi có thể nắm bắt được ý nghĩa chân thực của bản văn (Augustine).
Thứ nhì, hiểu một bản văn có nghĩa là nắm bắt được chiều sâu của bản văn, hay hậu cảnh hình thành nên nó. Đó là những tiến trình “phía sau” bản văn như: ý định của tác giả, cách dùng ngôn ngữ, hình thức văn hóa và mô biểu lịch sử vốn làm cho tư tưởng trở thành tác phẩm. Giải thích học ở không gian thứ nhì không chỉ bao gồm ý nghĩa và ý vị của bản văn, mà cả bối cảnh xã hội, cách dùng ngôn ngữ và tiền kiến của tác giả. Quan điểm này cho rằng bản văn là những làn sóng mà tư tưởng của tác giả đã tạo nên trên biển cả ngôn ngữ. Vì thế, muốn “hiểu” bản văn chúng ta cần tận dụng cả kỹ thuật ngữ pháp lẫn kỹ năng tâm lý. Người chú giải cần hiểu “chiều rộng” của ngôn ngữ (so sánh với cách dùng ngôn ngữ của các tác giả khác) lẫn “chiều sâu” của tâm hồn của tác giả (khả năng nhập tâm). Từ đó, thông diễn học trở thành nghệ thuật cân bằng giữa hai khía cạnh khách quan và chủ quan của ngôn ngữ. Triết học Khai Sáng và triết học Lãng Mạn là những động lực đứng sau các phát triển này.
Ở không gian thứ ba thì việc thông diễn càng phức tạp hơn vì chúng ta cần khai thác ý nghĩa “phía trước” bản văn, tức là ý nghĩa của bản văn thì luôn tồn tại trong mối tương quan phức tạp giữa bản văn và người hiểu. Hiểu bản văn tức là người đọc mang ý nghĩa của nó vào hiện tại, cho phép bản văn nói lên với chúng ta, bằng ngôn ngữ của chúng ta, chân lý mà chúng ta rút tỉa được từ nó. Cả hai chân trời tri thức của bản văn và của người đọc cần phải được dung hòa với nhau để hiểu trở thành hiện thực. Ngoài các ý nghĩa bên trong bản văn và phía sau bản văn, việc chú giải cần phải ý thức về tiềm thức, tiền kiến và dự phóng của người đọc. Không độc giả nào mà không có một lịch sử ảnh hưởng của các chân trời thông diễn nào đó. Chúng ta không chỉ hiểu về cách tồn tại của bản văn mà còn cả ảnh hưởng của những bản văn cổ điển lên cách chúng ta hiểu. Vì thế, chúng ta không nhất thiết hiểu bản văn hơn tác giả hiểu chính mình, nhưng sẽ hiểu khác hơn cách tác giả hiểu bản văn.
Mặt khác, nếu thông diễn là hành vi tham dự vào ngôn ngữ, thì nó cũng bao hàm khả năng chân lý có thể bị che lấp trong tiến trình thông diễn giữa chủ thể và đối tượng được chú giải bởi những ý thức hệ quyền lực nào đó. Sự băng hoại này hiện diện trong tiến trình sản xuất bản văn, tiền thức của người đọc, và trong mối tương quan giữa người đọc và bản văn. Khả năng hiểu lầm có thể đến từ ý đồ chính trị, quyền lực hay chủ nghĩa phân biệt. Hiểu không chỉ là đón nhận chân lý tỏ lộ từ bản văn mà còn lột trần những gì đang bị che đậy hay bị tha hóa. Do đó, ở không gian thứ ba, cần phải có một tri thức luận hoài nghi hay một thông diễn học phê phán vốn có hiệu lực giải phóng ý nghĩa của bản văn ra khỏi sự thống trị của hệ thống ý thức hệ nào đó đang thao túng cách chúng ta hiểu. Giống như một chuyên gia tâm lý, người đọc không chỉ đòi hỏi phải có sự đồng cảm với bản văn, nhưng cũng cần giữ một khoảng cách phê phán để có thể nhận diện khả năng ý nghĩa đang được ngụy tạo trong tiến trình thông diễn.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THÔNG DIỄN HỌC
Dựa trên ba không gian trên đây, chúng ta sẽ sơ lược qua ba giai đoạn phát triển của các hoạt động của thông diễn học.
a). Thông diễn học như là phương pháp chú giải Kinh Thánh
Mọi tôn giáo đều khởi đầu với kinh nghiệm, ý tưởng, ngôn ngữ và biểu tượng của đấng sáng lập, nhưng chính các hiện tượng này cũng là một sự thông diễn của những truyền thống đã có trước đó rồi. Trong Kitô giáo, Đức Giêsu đã bày tỏ cách mình hiểu và chú giải Cựu Ước qua kinh nghiệm “Abba” và sứ vụ “Nước Trời” của Ngài. Thánh Phaolô cũng giải thích Cựu Ước nhưng qua kinh nghiệm hoán cải và sự gặp gỡ với Đức Kitô phục sinh. Các tác giả Tân Ước đã tìm cách kết nối “bầu cũ và rượu mới” để diễn giải ý nghĩa của biến cố Kitô và lý do cho sứ mệnh và sự tồn tại của giáo hội. Với sự gia nhập của văn hóa và triết học Hy-lạp sau đó, thì có những trường phái chú giải có tính hệ thống hơn, dùng biểu tượng và ẩn dụ tại Alexandria, hoặc dựa trên quan điểm lịch sử và tiên trưng tại Antioch. Một khi phương pháp chú giải Kinh Thánh trở nên phức tạp và đa dạng thì thẩm quyền giáo hội cũng trở thành một cách thông diễn qua các quy phạm của đức tin.
Mọi việc chú giải Kinh Thánh luôn bao gồm các vấn đề như: khả năng tiếp thu bản văn với ngôn ngữ xa lạ và điển tích bí ẩn, ngữ nghĩa và bối cảnh xuất phát của bản văn, ý định của tác giả và truyền thống, tính toàn vẹn và qui điển của bản văn. Trong Giáo hội sơ khai, Kinh Thánh là “Cựu Ước” và mọi việc chú giải Kinh Thánh đều qui về mối tương quan với Đức Kitô. Ví dụ, muốn hiểu về Abraham, Mosen hay Isaiac thì hãy xem nhưng nhân vật này có làm nổi bật khía cạnh tiên trưng nào về Đức Kitô hay không (trường phái Antioch). Còn chú giải theo ẩn dụ thì phân biệt ý nghĩa theo những mô hình vật chất hay tinh thần, như trong câu nói, “Người Do Thái đọc Kinh Thánh theo nghĩa thân xác, trong khi đó Kitô hữu đọc theo nghĩa thần khí” (trường phái Alexandria). Từ Origen đến Augustine đều nhắm vào các điều kiện phải có trước, như linh đạo thanh tẩy hoặc đời sống cô tịch, để giúp người đọc có thể nhận ra các mức độ ý nghĩa thiêng liêng của bản văn. Bước vào thời Trung cổ thì việc chú giải Kinh Thánh trở nên phong phú hơn với nhiều cách giải thích ý nghĩa của bản văn như: nghĩa nguyên văn (literal sense), nghĩa thiêng liêng (spiritual sense), nghĩa lịch sử (tiên trưng) hay nghĩa ẩn dụ (allegorical).
Hơn nữa, Kinh Thánh cũng được viết bởi nhiều tác giả qua những bối cảnh lịch sử rất khác biệt, cho nên việc chú giải Kinh Thánh đòi hỏi phải có ý thức về những vấn đề như sự thống nhất và tính quy điển toàn vẹn của Kinh Thánh, hoặc thẩm quyền của Lời Chúa và lịch sử tính của bản văn. Theo Raymond Brown, Kinh Thánh là một sự tổng hợp và chọn lựa quy điển của rất nhiều bản văn vốn được sáng tác trong thời gian trải dài hơn một nguyên niên do nhiều tác giả và đến từ nhiều bối cảnh lịch sử khác nhau. Vì thế, chú giải Kinh Thánh chính là việc “chú giải về chú giải”. Chúng ta cần xác định đâu là “chìa khóa” để chú giải cho đúng theo tinh thần quy điển của Kinh Thánh. Ý nghĩa của Lời Chúa thì dựa trên ý định của tác giả và cộng đoàn đức tin nguyên thủy hay ý nghĩa mà độc giả và cộng đoàn ngày nay nhận ra nơi bản văn? Quy điển của việc chú giải đến từ sự thống nhất nội tại như truyền thống ngôn sứ hay truyền thống tư tế, hay đến từ thẩm quyền Giáo hội? Thông diễn học cận đại nhấn mạnh vào khả năng phục hồi ý nghĩa gốc của bản văn, trong lúc đó thông diễn học hiện đại thì chú tâm về những gì người đọc mang vào bản văn.
b). Thông diễn học như khoa giải thích học riêng biệt
Ngoài việc chú giải Kinh Thánh, thông diễn học có một lịch sử lâu dài giải thích và phê bình thơ của Homer và các thi sĩ khác. Đến cuối thời Trung Cổ, nhiều tư liệu từ thời Cổ Đại được khám phá, nhưng vì khoảng cách thời gian, văn tự cổ đa nghĩa, vốn làm cho ý nghĩa trở nên thất lạc hoặc mơ hồ. Khoa Văn hóa học (cultural studies) ra đời với mục đích làm rõ những khó khăn về từ vựng, ngữ pháp, ngữ cảnh của văn bản. Nhiệt tình say mê văn hóa Cổ Đại và giải phóng tư tưởng tiềm tàng trong đó đã thúc đẩy khoa nghiên cứu văn hóa phát triển nhanh chóng. Đồng thời cũng kéo theo lĩnh vực tôn giáo, cùng với sự hứng khởi của phong trào Cải Cách, đã áp dụng lối giải thích của mình vào Kinh Thánh, với mục đích muốn thoát khỏi sự ràng buộc của thẩm quyền Giáo Hội Roma. Xuất phát từ mục đích đó, nguyên tắc chung cho việc giải thích được đề xướng và từ đó phát triển nhu cầu thần học giải thích.
Do nhu cầu nhận thức lại truyền thống của Phục Hưng và nhu cầu cải cách của Tin Lành, người ta phát hiện rằng phải có một trình độ huấn luyện thích đáng về văn học, thì mới có thể hiểu nội dung của văn bản. Do vậy, hai hình thái thông diễn học - tu từ học và văn hóa học - cần phải hợp nhất làm một. Thông diễn học trở thành một thứ kỹ thuật giải thích chính xác, một thứ phương pháp luận giải thích văn bản theo nghĩa hẹp. Khuynh hướng mới là chuyển từ nghiên cứu ngôn từ của Kinh Thánh sang nghiên cứu bối cảnh lịch sử của tác giả. Mỗi bản văn đều có tác giả con người, và tác giả bơi lội trong dòng chảy của ngôn ngữ và văn hóa của họ. Cho nên việc chú giải là vấn đề thông diễn tiến trình tư tưởng của tác giả trở thành bản văn. Trong nỗ lực tìm hiểu hậu cảnh của bản văn, thông diễn học cận đại đã lần lược nhấn mạnh khía cạnh văn hóa, sử liệu và cách tác giả dùng ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng trong bản văn.
Johann Ernesti (1707-1781) cho rằng linh ứng không phải là chìa khóa cho việc chú giải. Ngôn ngữ là những ký hiệu với ý nghĩa tùy thuộc vào điều kiện xã hội và địa phương chứ không có thực tại bí ẩn nào khác. Chúng ta cần nghiên cứu cách dùng ngôn từ, bối cảnh văn hóa và lịch sử để xác định ý nghĩa của Kinh Thánh. Trong lúc đó, Friedrich Ast (1778-1841) lưu tâm về chiều kích nghệ thuật của tác phẩm cổ điển và khía cạnh “tha ngã” hay tính xa lạ của bản văn. Thông diễn học cần khai triển một loại bình phẩm sử liệu (redaction criticism). Ast nhấn mạnh về sự phát triển của tư tưởng nơi tác giả. Cuối cùng Schleiermacher (1768-1834) đã cải tiến thông diễn học thành một bộ môn triết học về “ý nghĩa”. Những gì Ast cho là “xa lạ” thì bây giờ được xem như là “độc đáo và thiên tài.” Schleiermacher đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú qua việc giải thích và hiểu Kinh Thánh và văn hóa cổ đại. Là một triết gia, Schleiermacher đã hệ thống hóa các kỹ năng chú giải để biến thông diễn học thành một phương pháp luận phổ biến, với một sứ mệnh rất lãng mạn: “hiểu tác giả hơn chính tác giả hiểu chính mình”.
Nói chung, thông diễn học thời Trung Đại chuyển hướng từ ý nghĩa vật chất sang ý nghĩa tâm linh nhưng vẫn nhấn mạnh vào chiều kích bản thể của ngôn ngữ. Đến thời Ánh Sáng, thông diễn học từ bỏ hoàn toàn ý nghĩa nội tại và hướng về ý nghĩa ngoại tại (bối cảnh tự nhiên) của ngôn ngữ, như thế đã giới thiệu một số “vòng tròn giải thích” giữa việc am hiểu bản văn và hậu cảnh văn hóa, lịch sử, hay cách dùng ngôn ngữ. Triết lãng mạn tìm cách cân bằng giữa hai yếu tố, kỷ thuật giải thích ngữ pháp và kỷ năng nhập tâm, trong tiến trình thông diễn một tác phẩm, vì tác phẩm là biểu hiện bên ngoài của tinh thần sáng tạo đặc thù bên trong.
Schleiermacher có địa vị quan trọng trong sự phát triển của thông diễn học vì ông là người đầu tiên hệ thống hóa lý luận thông diễn học từ góc độ triết học. Trọng tâm nghiên cứu lý luận thông diễn học nằm ở bản thân việc hiểu, chứ không phải ở văn bản được hiểu. Xuất phát từ truyền thống lãng mạn, Schleiermacher tôn thờ tinh thần như là cái sáng tạo của vô thức ở thiên tài cá biệt, vì thế, hiểu cũng phải là một hoạt động sáng tạo. Schleiermacher đề xướng hai khía cạnh: giải thích ngữ pháp hay khách quan để xử lý đặc điểm ngôn ngữ mà tác giả biết rõ, và giải thích tâm lý hay “nhập tâm” để nghiên cứu tư tưởng sản sinh như thế nào từ toàn bộ cuộc sống của tác giả. Tuy cả hai loại giải thích đều cần thiết, nhưng Schleiermacher coi trọng loại thứ hai hơn, tức là nhu cầu dựng lại quá trình sáng tạo của tác giả. Người giải thích phải nắm bắt những gì trong quá trình sáng tạo mà tác giả trong lúc sáng tạo không ý thức được. Qua sự quân bình giữa tri thức lịch sử và tri thức ngôn ngữ học, người chú giải hiểu cách tác giả tồn tại qua ngôn ngữ của bản văn.
Sau Schleiermacher, Dilthey muốn nhấn mạnh về khía cạnh khách quan của tồn tại khi nghiên cứu văn hóa và các khoa học nhân văn. Nhưng đến thời Heidegger và Gadamer, vấn đề của thông diễn học trở thành vấn đề của triết học về ý nghĩa tồn tại mà phạm trù “hiện sinh” cố gắng nắm bắt. Với nỗ lực của Heidegger- Gadamer liên kết vấn đề ý nghĩa với vấn đề chân lý thì thông diễn học hiện đại trở thành một phương pháp triết học giúp mở ra chiều kích hiện sinh của Dasein. Loại thông diễn học này nhấn mạnh khía cạnh tiền thức trong mọi tiến trình thông diễn như khoa học, văn hóa, bản văn. Luôn luôn có một chiều kích tự hiểu biết bao hàm trong mọi hiểu biết về thế giới vì không có một sự hiểu biết hay thông diễn nào mà độc lập khỏi chân trời của tự thức (self-understanding). Heidegger cho rằng thông diễn học đang thay thế siêu hình học và tri thức luận.
Đây là hậu quả của sự chuyển hướng vào tính ngôn ngữ của tồn tại. Heidegger đề nghị dùng phạm trù “hiện sinh” (existentielle) thay thế cho phạm trù phẩm/lượng của Aristotle. Triết học hiện đại nhấn vào cách con người cảm nhận, sống, suy tư và thông hiểu về chính sự tồn tại của mình. Descartes tìm nền tảng chắc chắn cho tri thức dựa trên lý trí hay tự thức của con người. Kant khai triển khả năng phán đoán tiên nghiệm của lý trí, các phạm trù có khả năng tổ chức các kinh nghiệm để trở thành đối tượng cho tri thức. Hegel thì không có trải nghiệm tiên nghiệm, vì tất cả chúng ta đang ở trong dòng chảy của lịch sử và văn hóa. Gadamer thì đi xa hơn nữa. Mọi trải nghiệm của chúng ta đã được điều kiện hóa bởi các tác phẩm cổ điển và phương cách văn hóa của chúng ta tiếp cận chúng. Mọi chân trời chủ thể của chúng ta đều nằm trong phạm vi của thông diễn. Gadamer thử thách nhận thức luận đi tìm câu trả lời cho câu hỏi làm thế nào chúng ta biết. Hỏi được như thế là đã giả định một số tiền kiến về tri thức và kinh nghiệm văn hóa đã có sẵn rồi.
c). Thông diễn nhân học áp dụng vào nhân học, thần học, và xã hội học
Trong khi chủ đích của truyền thống thông diễn học tân thời Schleiermacher-Heidegger-Gadamer là khôi phục chân lý tiềm tàng trong mối tương quan giữa bản văn và chủ thể tiếp cận bản văn, thì thuyết phê bình xã hội cho rằng ý nghĩa không chỉ hiện diện trong bản văn mà còn có thể bị băng hoại, che đậy và thống trị bởi ý muốn quyền lực. Nietzsche dùng phương pháp truy tầm gia phả để vạch trần các ý đồ tiềm ẩn trong truyền thống và phương pháp chú giải. Cần phải có một thông diễn học hoài nghi để giải thoát ý nghĩa có thể đang bị thao túng vì quyền lực thống trị nào đó trong bản văn. Trường phái phê bình xã hội ở Frankfurt đề nghị dùng tính đồng thuận vốn được giả định trong mọi hành vi ngôn ngữ (communicative action theory) như là nền tảng phê phán để nhận diện các hệ thống quyền lực, giới tính, và kinh tế trong mọi hình thức tư duy xã hội. Các nhà học giả thuộc “Frankfurt School” (Adorno, Horkheimer, Habermas, Foucault, etc.) đã đóng góp phần lớn vào sự hình thành của một khúc quanh mới cho việc thông diễn, đó là thông diễn học phê phán.
Trường phái phê bình xã hội cho rằng Gadamer xem thông diễn học là khoa học nghiên cứu bản thân ngôn ngữ và như thế đã tuyệt đối hóa tính ngôn ngữ về mặt bản thể luận. Theo Habermas, ngôn ngữ chỉ là một phương tiện của thực tại, còn có các nhân tố cấu thành khác lên tư tưởng hành vi của con người. Habermas cũng phản đối cách Heidegger đã bản thể hóa thông diễn học, thay vì nhận diện các điều kiện và tính miêu tả hữu hạn của thông diễn học. Habermas cho rằng giống như phân tâm học (psycho-analysis) và phê phán ý thức hệ (critique of ideology), thông diễn học chỉ liên quan tới việc lột trần các nguyên tắc lịch sử xã hội tiềm tàng trong tiến trình hiểu với mục tiêu giúp cho sự thông diễn này được minh bạch hơn.
Paul Ricoeur muốn bắt nhịp cầu giữa thông diễn học hữu thể luận (Gadamer) và thông diễn học phê phán (Habermas). Một thông diễn học cần đi song song với tư duy mang tính phê phán, nhưng không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải bỏ lại đàng sau truyền thống và bản văn cổ xưa. Như thế, bản văn có thể mở ra cho chúng ta một không gian mà qua đó các khả năng tồn tại và lối sống trong xã hội được tỏ lộ. Tính năng động hay “khả năng sản xuất” của bản văn, làm soi mòn quan điểm cho rằng thực tại chỉ là một hệ thống gồm những ý niệm cứng nhắc, áp đặt thẩm quyền ưu tiên của nó lên tiến trình thông diễn.
Chủ thuyết hậu cấu trúc của Derrida cho rằng Gadamer vẫn chưa thoát ra được truyền thống bắt đầu từ Plato, vốn xác định thực tại, logos và lý tính theo siêu hình học duy thực. Derrida đặt nghi vấn về sự am hiểu như là một tiến trình liên tục mở ra. Derrida và Gadamer đã tranh luận về cách diễn giải tư tưởng Heidegger tại Paris (1981). Derrida khẳng định rằng ý nghĩa chỉ trở thành khả thi dựa trên sự thiếu vắng qua các mối quan hệ của một từ với những từ khác trong một mạng bao la và vô số các cấu trúc phức tạp mà chính nó là bản chất của ngôn ngữ. Người đọc phải phấn đấu để vượt qua sự hiểu lầm và ý tưởng ngụy tạo của ngôn ngữ công cộng vốn có thể đưa đến các ảo tưởng hiểm nguy.
Fr. Joseph Tân Nguyễn, ofm