Triết Học Trong Việc Định Hướng Các Ý Niệm Giới (Phần I)

Wed,09/04/2025
Lượt xem: 248

MỤC LỤC

Dẫn nhập

I.  Nguồn gốc và cơ sở hình thành ý niệm giới tính

1. Ý niệm giới tính được hình thành trong tiến trình lịch sử

2. Dẫn trích các tư tưởng triết học về định kiến giới

II.   Tri thức luận trong việc chỉ ra sai lầm của định kiến giới.

1. Định kiến giới xét như một thường kiến

2. Định kiến giới xét như niềm tin trong mối quan hệ với nhận thức

3. Định kiến giới xét trong tri thức luận xã hội

III. Đạo đức học đề ra giải pháp cho các vấn đề về giới

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

Dẫn nhập

Người viết bắt đầu bước vào thế giới triết học với một thắc mắc “Tại sao các gương mặt đại diện của triết học từ cổ đại cho đến hiện đại đều là nam giới, cho dù có xuất hiện ở đâu đó một cái tên nữ giới thì nó cũng chỉ như một sự thoáng qua hiếm hoi mà không được xem xét cách kĩ càng?” Phải chăng, suy tư nghiên cứu là công việc thuộc về nam giới; nữ giới chỉ là những biểu hiện mờ nhạt của tư duy và suy luận? Điều này bắt nguồn từ sự khác biệt về cấu trúc não bộ và tâm sinh lý của phái tính hay đến từ sự ảnh hưởng của xã hội? Phụ nữ rõ ràng có cùng một bản tính con người như nam giới nhưng tiềm năng “con người” của họ bị xã hội và nền văn hóa làm cho mờ nhạt. Trải qua các giai đoạn khác nhau của nền văn minh nhân loại, người ta vẫn luôn tin rằng phụ nữ có bản chất cảm xúc hơn là lý trí. Phụ nữ chỉ nên và chỉ có thể được mong đợi vun xới vẻ ngoại hình và những tình cảm tế nhị, nhạy cảm hơn là phát triển tri thức và khả năng tư duy.

Triết học đóng vai trò như một ngành khoa học định hướng nêu ra những giới hạn và mở ra chân trời đạo đức cho việc giải quyết những vấn đề xã hội như định kiến giới. Câu hỏi triết học đặt ra là liệu ý thức phái tính được quy định bởi xã hội hay do các yếu tố sinh học? Liệu rằng ý niệm giới tính là tuyệt đối và bất bình đẳng hay chỉ là những ý niệm tương đối? Nền tảng của tri thức luận đã góp phần không nhỏ trong việc lý giải những tư tưởng khắt khe về giới tính do ảnh hưởng của xã hội và những niềm tin sai lầm. Và đạo đức học cũng nhập cuộc để mang đến những giải pháp hầu cứu vãn những sai lầm đó. Phái tính vẫn luôn là đề tài gây tranh cãi qua các thời kì và dẫu khi đã thiết lập được các quy tắc bình đẳng thì ẩn dưới lớp băng trôi đó vẫn là những ý thức sai lầm kéo người nữ ra xa khỏi biên giới vô tận của nền tri thức nhân loại.

I.           Nguồn gốc và cơ sở hình thành ý niệm giới tính

1.          Ý niệm giới tính được hình thành trong tiến trình lịch sử

Ngay từ những bước đi đầu tiên của lịch sử nhân loại, giới tính đã được định hình và được gán cho rất nhiều ý nghĩa. Ta không thể bắt gặp một nền văn hóa nào mà không có ý niệm về giới tính. Tại sao nó lại quan trọng đến vậy? Nó mang ý nghĩa và bản chất như thế nào? Người ta phân loại giới tính dựa trên những quy chuẩn nào? Để giải thích những câu hỏi này, ta phải quay trở lại lịch sử xã hội để tìm hiểu về ba lý thuyết được coi như cách tiếp cận và định nghĩa giới tính: theo cấu chúc chức năng, theo tương tác biểu tượng và theo xung đột xã hội.[1]

-                     Lý thuyết cấu trúc chức năng: Khía cạnh này quan tâm đến các đặc điểm sinh lý và sinh sản của mỗi giới. Từ góc độ này, giới được nhìn như một phương tiện phân chia xã hội thành những vai trò riêng biệt bổ sung cho nhau. Ở thời tiền cổ, khi còn săn bắt hái lượm, đàn ông khỏe mạnh và không sinh con nên có nhiệm vụ tìm kiếm và chu cấp thức ăn. Điều này khiến đàn ông trở nên tự chủ và nắm giữ quyền lực, ngay cả trong thời đại hiện nay, khi họ không còn cần dùng đến thể chất như một năng lực để làm việc. Ngược lại phụ nữ thì được coi là nên ở nhà và chăm sóc gia đình vì những yếu tố thể chất và sinh học của họ.

-                     Lý thuyết tương tác biểu tượng: Phân chia giới xét trên góc độ cá nhân và các đặc điểm tương tác của mỗi giới. Nó bao gồm các yếu tố văn hóa, xã hội, tâm lý trong việc thể hiện giới tính. Ở ý tưởng này, người ta coi giới tính dưới góc độ hành vi cá nhân. Giới tính là điều gì đó mà một cá nhân thực hiện chứ không phải do bẩm sinh quy định. Chính trang phục, kiểu tóc, màu sắc hay tư thế, ngôn ngữ cơ thể là cách mà giới tính được phân loại.

-                     Lý thuyết xung đột xã hội: lý thuyết này nhấn mạnh đến một hệ thống cấu trúc phân bổ quyền lực cho một số người và gây bất lợi cho những người khác, liên quan đến những mâu thuẫn, bất bình đẳng và sự kì thị mà các giới gặp phải. Lấy ví dụ ở chế độ phụ hệ, nam giới trở nên nắm quyền lực và thống trị trên những giới khác. Phụ nữ bị định kiến là sống cảm xúc trong khi nam giới thì lý trí và mặc nhiên là phù hợp với vị trí lãnh đạo. Sự phân tầng giới tính làm cho nữ giới trở nên bất lợi và bị hạn chế các vai trò và quyền lợi.[2]

Chúng ta thấy rằng, cho dù ở thuyết nào khi xét về mặt sinh học, cá nhân hoặc xã hội thì nữ giới cũng luôn chịu thiệt thòi hơn so với nam giới. Họ được coi là yếu đuối, phụ thuộc và không thích hợp với những lãnh vực cộng đồng xã hội. Và chính những quan niệm này về giới đã ảnh hưởng rất nhiều lên cách nhìn nhận nữ giới như là chính họ. Đây vẫn là những định kiến khó thay đổi đã ăn sâu trong não trạng của cả nhân loại mà tiêu biểu là các triết gia thời kì đầu.

2.          Dẫn trích các tư tưởng triết học về định kiến giới

Có lẽ triết học là nơi đã định hình và duy trì những ý niệm về giới một cách rạch ròi. Những triết gia thời cổ đại được coi là định hướng nền tri thức nhân loại cũng mang một sự châm biếm và hoài nghi khi nói về người nữ. Nhà triết học Euripides thời cổ đại Hy Lạp đã viết: “Kẻ nào thôi không nói xấu về phụ nữ nữa thì đúng là kẻ điên.” Hoặc ở trong tác phẩm Politics của Aristotle, ta cũng nhận thấy ở ông một tư tưởng không tích cực khi nhìn đến khả năng của nữ giới: “Lẽ thường trong mối quan hệ giữa nam và nữ: một bên thì cao quý, một bên thì thấp kém; một bên cai trị, một bên bị cai trị. Đó là quy tắc nhất thiết phải có để duy trì trật tự nhân loại,”[3] đối với ông, phụ nữ thì yếu đuối và không đủ khả năng để tham gia vào các hoạt động công cộng và chính trị, chỉ nên sống trong trạng thái phụ thuộc và tuân theo sự lãnh đạo của nam giới. Ở một tư tưởng hiện đại Đức, Nietzsche nhìn phụ nữ với vẻ hoài nghi và cảnh giác: “Trước lúc đến với đàn bà, mi đừng quên mang theo một cây roi!” (trích trong Ainsi parlait Zarathoustra). Ở quan điểm triết học Ki-tô giáo cũng có một số ý kiến tiêu cực về phụ nữ, Tertullian viết: “Phụ nữ! Bạn là cửa ngõ của ma quỷ. Bạn đã thuyết phục được kẻ mà ma quỷ không dám đối đầu trực tiếp. Con Đức Chúa Trời phải chết là lỗi của bạn. Bạn nên luôn mặc đồ tang và rách rưới.” (trích Tertullian, De Habitu Muliebri).

Ở nền văn hóa Đông phương, sự phân cấp này càng rõ rệt. Khổng Tử trong “Luận Ngữ” nói về phụ nữ: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã; cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán” (唯女子與小人為難養也,近之則不遜,遠之則怨) nghĩa là “Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy bảo, gần gũi thì vô lễ, xa cách thì oán hận.” Tuyên ngôn phân biệt giới này cho thấy rằng người nam không chỉ có nhu cầu quản lý phụ nữ mà còn đánh đồng giá trị người phụ nữ với đầy tớ. Trong văn hóa Đông phương và nói riêng là triết lý Nho giáo, vai trò của người phụ nữ thì thấp kém, im lặng và thường được nhấn mạnh về sự trinh tiết và phục tùng như những đức tính sáng ngời cần được nuôi dưỡng và phát huy.

Anê Thành - Nguyễn Ngọc Tâm, OPTT.

 

Tài liệu tham khảo

Durant, Will. Câu Truyện Triết Học. Dịch giả Trí Hải và Bửu Đích. Hà Nội: Văn hóa & Thông tin, 2008.

Edmund, L. Gettier. “Is Justified True Belief Knowledge?” Analysis Volume 23, Issue 6, 01 June 1963, 121–123. https://doi.org/10.1093/analys/23.6.121

Gilligan, Carol. In a different voice. New York: Harvard University Press, 1982.

Grasswick, Heidi. “Feminist Social Epistemology”. The Stanford Encyclopedia of Philosophy. Zalta, Edward N., ed. July 24, 2018. https://plato.stanford.edu/entries/feminist-social-epistemology/

Macionis, John J. Sociology. Dịch giả Trần Nhật Tân. Hà Nội: Thống Kê, 2004.

Mead, Margaret. Sex and Temperament in Three Primitive Societies. Harper Perennial, 1971.

Mortimer, J. Adler. Cùng Suy Nghĩ về Những Ý Niệm Lớn. Dịch giả Phạm Viên Phương và Mai Sơn. Nes Education & Hồng Đức, 2019.

O’Connor, Cailin, Sanford Goldberg, and Alvin Goldman. “Social Epistemology.” The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Winter 2023 Edition), Edward N. Zalta & Uri Nodelman (eds.). https://plato.stanford.edu/entries/epistemology-social/#Aca

Simone de Beauvoir. The Second Sex. Translated by C. Borde and S. Malovany-Chevallie. New York: Vintage, 2010.

Stumpf, Samuel Enoch. Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề. Hà Nội: Lao Động, 2004.

Stumpf, Samuel Enoch, and Donald C. Abel. Nhập Môn Triết Học Phương Tây. Dịch giả Lưu Văn Hy. HCM: Tổng Hợp Tp.HCM, 2004.

 



[1] Các nhà Xã hội học xây dựng các lý thuyết để giải thích các hiện tượng xã hội. Theo Macionis trong Sociology thì lý thuyết giải thích vì sao và làm thế nào để các sự kiện hiện tượng liên hệ với nhau. Ở đây dùng đến ba lý thuyết chính được coi là định hình và giải thích các hiện tượng trong xã hội học.

[2] John J. Macionis, Sociology, Trần Nhật Tân dịch (Hà Nội: Thống Kê, 2004), 26-32.

[3] Aristotle, Politics, book 1, 1254b. https://www.perseus.tufts.edu/hopper/

“So, it is naturally with the male and the female; the one is superior, the other inferior; the one governs, the other is governed; and the same rule must necessarily hold good with respect to all mankind.

Nguồn tin: https://sjjs.edu.vn/